Courageous (lớp tàu chiến-tuần dương)
From Wikipedia, the free encyclopedia
Lớp tàu chiến-tuần dương Courageous bao gồm ba chiếc tàu chiến-tuần dương được biết đến như là những "tàu tuần dương hạng nhẹ lớn" được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Trên danh nghĩa được thiết kế cho Dự án Baltic của Đô đốc Lord John Fisher, vốn dự định hỗ trợ cho việc đổ bộ lực lượng lên bờ biển Baltic của Đức. Những chiếc thuộc lớp này sẽ rất nhanh nhưng có vỏ giáp mỏng và chỉ mang vài khẩu pháo hạng nặng, có tầm nước rất cạn cho phép hoạt động tại vùng nước nông của biển Baltic, đồng thời cũng phản ảnh những kinh nghiệm có được trong chiến tranh trước đó. Để có tốc độ tối đa, lớp Courageous là những tàu chiến chủ lực đầu tiên của Hải quân Hoàng gia sử dụng turbine hơi nước và nồi hơi ống nước nhỏ.
Courageous như một tàu chiến-tuần dương trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất | |
Khái quát lớp tàu | |
---|---|
Bên khai thác | Hải quân Hoàng gia Anh |
Lớp trước | lớp Renown |
Lớp sau | lớp Admiral |
Lớp con | Furious |
Kinh phí | 2.038.225 Bảng Anh (Courageous) |
Thời gian đóng tàu | 1915–1917 |
Thời gian hoạt động | 1916–1944 |
Dự tính | 3 |
Hoàn thành | 3 |
Bị mất | 2 |
Tháo dỡ | 1 |
Đặc điểm khái quát(Courageous) | |
Kiểu tàu | Tàu tuần dương lớn nhẹ/Tàu chiến-tuần dương |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài | 786 ft 9 in (239,8 m) |
Sườn ngang | 81 ft (24,7 m) |
Mớn nước | 25 ft 10 in (7,9 m) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 32 hải lý trên giờ (59 km/h; 37 mph) |
Tầm xa | 6.000 nmi (11.110 km; 6.900 mi) ở tốc độ 20 hải lý trên giờ (37 km/h; 23 mph) |
Tầm hoạt động | 3.160 tấn Anh (3.211 t) dầu |
Thủy thủ đoàn tối đa | 842 sĩ quan và thủy thủ |
Vũ khí |
|
Bọc giáp |
|
Hai chiếc đầu tiên trong lớp Courageous và Glorious được đưa ra hoạt động vào năm 1917 và trải qua thời gian còn lại của Chiến tranh Thế giới thứ nhất tuần tra tại Bắc Hải. Chúng tham gia trận Heligoland Bight thứ hai vào tháng 11 năm 1917 và đã có mặt khi Hạm đội Biển khơi Đức đầu hàng một năm sau đó. Con tàu nữa chị em Furious được thiết kế với một cặp pháo 18 inch (457 mm), cỡ nòng pháo lớn nhất từng được trang bị cho tàu chiến của Hải quân Hoàng gia, nhưng được cải biến trong khi chế tạo để có một sàn cất cánh và hầm chứa máy bay thay cho tháp pháo và hầm đạn trước mũi. Sau vài chuyến tuần tra tại Bắc Hải, tháp pháo phía sau cũng được tháo dỡ, bổ sung thêm một sàn cất-hạ cánh. Máy bay của nó đã thực hiện cuộc không kích Tondern vào tháng 7 năm 1918 khi những máy bay Sopwith Camel tấn công bãi đậu khí cầu Zeppelin ở Tondern.
Cả ba chiếc đều được cho ngừng hoạt động sau khi chiến tranh kết thúc, rồi được tái cấu trúc thành những tàu sân bay vào những năm 1920. Courageous và Glorious bị đánh chìm vào đầu Chiến tranh Thế giới thứ hai, còn Furious sống sót qua cuộc chiến tranh và bị tháo dỡ vào năm 1948.