Bắc Địch
From Wikipedia, the free encyclopedia
Bắc Địch (tiếng Trung: 北狄; bính âm: Běidí; Wade–Giles: Pei-ti) là thuật ngữ mang ý miệt thị trong lịch sử Trung Quốc từ thời nhà Chu để chỉ các bộ lạc dân tộc ngoài Trung Nguyên cổ đại ở phía Bắc Trung Quốc.
Cho đến khi triều đại nhà Chu kết thúc, các tộc Bắc Địch gần như đã bị chinh phục và đồng hóa vào Trung Quốc. Tuy nhiên, sau này lại xuất hiện các bộ tộc du mục mới tại phía Bắc Trung Quốc như Hung Nô, Tiên Ti, Khiết Đan, Nữ Chân (nguồn gốc từ Trung Á di cư tới hoặc dân bản địa sinh sôi đông dần lên)... Các bộ tộc này luôn là mối đe dọa lớn đối với các vương triều Trung Quốc vì họ có đội kị binh đông và tinh nhuệ.
Lý thuyết vũ trụ quan "Trung Hoa" (Sinocentric) có từ thời nhà Chu (cỡ 1046–256 TCN) đưa ra khái niệm "trời tròn đất vuông", coi "thiên hạ" (天下) là bao trùm gồm Hoa Hạ (華夏) là nước ở trung tâm thế giới tức Trung Quốc, là nước của người đã giáo hóa văn minh, và bao quanh là các dân tộc Tứ Di (man di mọi rợ) không phải người Trung Quốc, gồm Đông Di (東夷), Bắc Địch (北狄), Tây Nhung (西戎), và Nam Man (南蠻). Các chữ tượng hình chỉ các nhóm này đều có phần biểu thị "sâu bọ thú vật" [1][2]. Ngày nay chữ Hán đã lược bỏ phần biểu tượng này đi, nên trong các chữ Hán dẫn ra ở trên chỉ còn có bộ khuyển (chó) 犭 ở chữ Địch (狄).