Chiến tranh Sáu Ngày
Cuộc chiến 6 ngày giữa Israel Do Thái và liên minh các quốc gia Ả Rập / From Wikipedia, the free encyclopedia
Chiến tranh sáu ngày (tiếng Ả Rập: حرب الأيام الستة, ħarb al‑ayyam as‑sitta; tiếng Hebrew: מלחמת ששת הימים, Milhemet Sheshet Ha‑Yamim), cũng gọi là Chiến tranh Ả Rập-Israel, Chiến tranh Ả Rập-Israel thứ ba, an‑Naksah (The Setback), hay Chiến tranh tháng sáu, là cuộc chiến giữa Israel và liên minh các nước láng giềng Ả Rập bao gồm: Ai Cập, Jordan, và Syria. Các quốc gia Liên Xô, Iraq, Ả Rập Xê Út, Kuwait, Cộng hòa Dân chủ Đức và Algérie cũng đóng góp nhân sự và vũ khí cho các lực lượng Ả Rập.
Chiến tranh sáu ngày | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Xung đột Ả Rập-Israel | |||||||||
Binh sĩ Israel tại Bức tường Than Khóc ở Jerusalem, sau khi họ chiếm được nơi này. | |||||||||
| |||||||||
Tham chiến | |||||||||
Hỗ trợ: |
Ai Cập Liên Xô | ||||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||||
Levi Eshkol Moshe Dayan Yitzhak Rabin Uzi Narkiss Motta Gur Israel Tal Mordechai Hod Yeshayahu Gavish Ariel Sharon Ezer Weizman Shlomo Erell David Elazar |
Gamal Abdel Nasser Abdel Hakim Amer Abdul Munim Riad Hussein Zaid ibn Shaker Asad Ghanma Salah Jadid Nureddin al-Atassi Abdul Rahman Arif | ||||||||
Lực lượng | |||||||||
264.000 (gồm 214.000 quân dự bị) 286 máy bay chiến đấu, 1.000 xe tăng, 1.500 xe thiết giáp, 962 đại bác[2] |
Ai Cập: 150.000 Syria 75.000 Jordan: 55.000 Ả Rập Xê Út: 20.000 682 máy bay chiến đấu, 2.337 xe tăng, 1.845 xe thiết giáp, 203 đại bác[2] | ||||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||||
776-983 chết, 4.517 bị thương, 15 bị bắt 46 máy bay 400 xe tăng bị phá hủy (thương vong chính thức) |
Khoảng 18.500 chết 30.000 bị thương Hàng ngàn mất tích hoặc đào ngũ 5.600 bị bắt 452 máy bay bị phá hủy (gần khoảng 400 chiếc bị phá hủy khi đang đậu trên sân bay) Gần 1.100 xe tăng bị phá hủy hoặc thu giữ (ước tính) |
Tháng 5 năm 1967, Ai Cập đã trục xuất Lực lượng Khẩn cấp của Liên Hợp Quốc (UNEF) khỏi Bán đảo Sinai, nơi đội quân này đã đồn trú kể từ năm 1957 (sau cuộc khủng hoảng Suez) và tạo thành một vùng đệm gìn giữ hòa bình ở đây. Ai Cập đã huy động 1.000 xe tăng và 100.000 lính đến biên giới[3], phong tỏa eo biển Tiran (cửa ngõ vào Vịnh Aqaba) đối với các tàu mang cờ Israel hoặc các tàu chở hàng chiến lược, và kêu gọi Các nước Ả Rập thống nhất lại để cùng hành động đối phó với Israel. Vào ngày 5 tháng 6 năm 1967, Israel đã tấn công phủ đầu đánh vào không lực Ai Cập do lo sợ nước này sẽ tiến hành một cuộc chiến xâm lược Israel.[4]
Sau đó, Jordan, vốn đã ký hiệp định tương trợ quân sự với Ai Cập từ ngày 30 tháng 5, tấn công tây Jerusalem và Netanya.[5][6][7]
Trong cuộc chiến, Israel đã giành ưu thế nhờ chủ động tấn công bất ngờ và có chiến thuật tốt. Trong khi đó, liên quân Ả rập (nhất là quân đội Ai Cập) thể hiện một tinh thần chiến đấu yếu kém, binh sỹ vô kỷ luật, các chỉ huy thì chủ quan khinh địch và mắc hàng loạt các sai lầm. Kết quả là quân Ả Rập thất bại nhanh chóng dù họ có ưu thế về quân số và trang bị. Khi kết thúc cuộc chiến, Israel giành được quyền kiểm soát Đông Jerusalem, dải Gaza, bán đảo Sinai, Bờ Tây, và cao nguyên Golan. Kết quả của cuộc chiến này ảnh hưởng đến địa thế chính trị của khu vực này cho đến ngày nay.