Kim Nhật Thành
lãnh đạo tối cao đầu tiên và là Tổng Bí thư Đảng Lao động Triều Tiên từ năm 1966 đến năm 1994 / From Wikipedia, the free encyclopedia
Kim Il-sung (Tiếng Triều Tiên: 김일성; Hancha: 金日成; Romaja: Kim Il Sŏng; McCune–Reischauer: Gim Il-seong; Hán-Việt: Kim Nhật Thành, truyền thông Việt Nam gọi ông bằng tên Hán-Việt phổ biến hơn tên gốc tiếng Triều Tiên)[1][2], tên khai sinh là Kim Song-ju (Tiếng Triều Tiên: 김성주; Hancha: 金成柱; Romaja: Gim Seong-ju; McCune–Reischauer: Kim Sŏngchu; Hán-Việt: Kim Thành Trụ, 15 tháng 4 năm 1912 – 8 tháng 7 năm 1994) là nhà lãnh đạo đầu tiên của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (còn gọi là Triều Tiên hoặc Bắc Triều Tiên) từ khi thành lập nước này vào năm 1948 cho đến khi ông qua đời vào năm 1994, là Lãnh tụ của Đảng Lao động Triều Tiên.
Kim Il-sung (Kim Nhật Thành) | |
---|---|
김일성 | |
Chủ tịch nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên | |
Nhiệm kỳ 28 tháng 12 năm 1972 – 8 tháng 7 năm 1994 21 năm, 192 ngày | |
Thủ tướng | Kim Il Pak Song-chol Li Jong-ok Kang Song-san Li Gun-mo Yon Hyong-muk |
Tiền nhiệm | Chức vụ thành lập |
Kế nhiệm | Bãi bỏ |
Thủ tướng Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên | |
Nhiệm kỳ 9 tháng 9 năm 1948 – 28 tháng 12 năm 1972 23 năm, 172 ngày | |
Tiền nhiệm | Chức vụ thành lập |
Kế nhiệm | Kim Il |
Đại biểu tại Hội nghị Nhân dân Tối cao thứ 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 và 9 | |
Nhiệm kỳ 2 tháng 9 năm 1948 – 8 tháng 7 năm 1994 45 năm, 309 ngày | |
Tổng Bí thư Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Triều Tiên | |
Nhiệm kỳ 11 tháng 10 năm 1966 – 8 tháng 7 năm 1994 27 năm, 270 ngày | |
Tiền nhiệm | Bản thân (Chủ tịch) |
Kế nhiệm | Kim Jong-il |
Chủ tịch Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Triều Tiên | |
Nhiệm kỳ 30 tháng 6 năm 1949 – 11 tháng 10 năm 1966 17 năm, 103 ngày | |
Tiền nhiệm | Kim Tu-bong |
Kế nhiệm | Bản thân (Tổng Bí thư) |
Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Triều Tiên | |
Nhiệm kỳ 28 tháng 8 năm 1946 – 30 tháng 6 năm 1949 2 năm, 306 ngày | |
Chủ tịch | Kim Tu-bong |
Tiền nhiệm | Chức vụ thành lập |
Kế nhiệm | Pak Hon-yong và Ho Ka-i |
Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng | |
Nhiệm kỳ 27 tháng 12 năm 1972 – 9 tháng 4 năm 1993 20 năm, 103 ngày | |
Tiền nhiệm | Chức vụ thành lập |
Kế nhiệm | Kim Jong-il |
Chỉ huy Tối cao Quân đội Nhân dân Triều Tiên | |
Nhiệm kỳ 4 tháng 7 năm 1950 – 24 tháng 12 năm 1991 41 năm, 173 ngày | |
Tiền nhiệm | Choe Yong-gon |
Kế nhiệm | Kim Jong-il |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | Kim Sŏng-ju 15 tháng 4 năm 1912 Mangyongdae, P'yŏng'yang-bu, P'yŏng'annam-do, Chōsen (nay thuộc Bình Nhưỡng, Triều Tiên) |
Mất | 8 tháng 7 năm 1994(1994-07-08) (82 tuổi) Bình Nhưỡng, Triều Tiên |
Nơi an nghỉ | Cung kỷ niệm Kumsusan, Bình Nhưỡng, Bắc Triều Tiên |
Đảng chính trị | Đảng Lao động Triều Tiên |
Đảng khác | Đảng Lao động Bắc Triều Tiên (1946–49) Đảng Cộng sản Trung Quốc (1931–46) |
Phối ngẫu | Kim Jong-suk Kim Song-ae |
Con cái | Kim Jong-il Kim Man-il Kim Kyong-hui Kim Kyong-jin Kim Pyong-il |
Cư trú | Bình Nhưỡng |
Chữ ký | |
Phục vụ trong quân đội | |
Thuộc | Liên Xô CHDCND Triều Tiên |
Phục vụ | Hồng quân Liên Xô Quân đội Nhân dân Triều Tiên |
Năm tại ngũ | 1941–1945 1948–1994 |
Cấp bậc | Dae wonsu (Đại Nguyên soái), Tư lệnh |
Chỉ huy | Chỉ huy Tối cao |
Tham chiến | Chiến tranh thế giới thứ hai Chiến tranh Triều Tiên |
Kim Il-sung | |
"Kim Il-sung" trong hancha (trên) và Chosŏn'gŭl (dưới) scripts | |
Chosŏn'gŭl | |
---|---|
Hancha | |
Romaja quốc ngữ | Gim Il(-)seong |
McCune–Reischauer | Kim Ilsŏng |
Hán-Việt | Kim Nhật Thành |
Tên khai sinh | |
Chosŏn'gŭl | |
Hancha | |
Romaja quốc ngữ | Gim Seong(-)ju |
McCune–Reischauer | Kim Sŏngchu |
Hán-Việt | Kim Thành Trụ |
Xuất thân từ một chỉ huy du kích trong phong trào kháng chiến chống Nhật của người Triều Tiên, Kim Nhật Thành giữ các chức vụ Thủ tướng từ 1948 đến 1972 và Chủ tịch nước từ năm 1972 đến 1994. Ông cũng là lãnh đạo của Đảng Lao động Triều Tiên (WPK) từ 1949 đến 1994 (với tư cách là Chủ tịch từ 1949 đến 1966 và là Tổng Bí thư sau năm 1966). Lên nắm quyền sau khi Nhật Bản chấm dứt cai trị Triều Tiên năm 1945, Kim Nhật Thành tổ chức cuộc tấn công Nam Triều Tiên vào năm 1950, gây ra sự can thiệp quân sự của Liên Hợp Quốc do Hoa Kỳ lãnh đạo nhằm bảo vệ Nam Triều Tiên. Sau giai đoạn bế tắc của quân đội hai bên trong Chiến tranh Triều Tiên, một hiệp định ngừng bắn đã được ký vào ngày 27 tháng 7 năm 1953. Kim Nhật Thành là người đứng đầu nhà nước/chính phủ (không tính các vị vua, hoàng gia) đương nhiệm lâu thứ hai trong thế kỷ 20, tại vị trong hơn 48 năm.
Dưới sự lãnh đạo của ông, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên đã trở thành một nhà nước xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế kế hoạch và sở hữu toàn dân, và có quan hệ chính trị và kinh tế chặt chẽ với Liên Xô. Đến thập niên 1960, người dân Triều Tiên được hưởng mức sống cao hơn Hàn Quốc, vốn đầy bất ổn chính trị và khủng hoảng kinh tế.[3][4][5] Tình hình đã bắt đầu đảo ngược vào giữa những năm 1970, khi Hàn Quốc ổn định trở thành một cường quốc kinh tế được đầu tư, viện trợ quân sự của Nhật Bản và Mỹ thúc đẩy và phát triển kinh tế nội bộ, trong khi kinh tế Triều Tiên dần bị đình trệ.[6] Sự khác biệt giữa Triều Tiên và Liên Xô bắt đầu hình thành, trung tâm của sự khác biệt là việc Kim Nhật Thành chuyển từ chủ nghĩa Marx sang triết lý Juche do chính ông sáng tạo, tập trung vào chủ nghĩa dân tộc và sự tự lực tự cường của người Triều Tiên. Mặc dù vậy, nước này vẫn tiếp tục nhận viện trợ và duy trì quan hệ chặt chẽ với Liên Xô (và Khối Đông phương) cho đến khi Liên Xô tan rã vào năm 1991. Việc mất đi viện trợ kinh tế đã ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế của Triều Tiên, gây ra nạn đói lan rộng vào năm 1994. Trong thời gian này, CHDCND Triều Tiên cũng chỉ trích sự hiện diện của lực lượng quốc phòng Hoa Kỳ trong khu vực, coi sự hiện diện này là chủ nghĩa đế quốc. CHDCND Triều Tiên đã chiếm giữ tàu USS Pueblo (AGER-2) của Mỹ vào năm 1968.
Kim Nhật Thành nắm quyền trong suốt nhiệm kỳ của sáu Tổng thống Hàn Quốc, mười Tổng thống Hoa Kỳ và sự cai trị của quốc vương Anh George VI và sau đó là con gái Elizabeth II. Được biết đến như là Nhà lãnh đạo vĩ đại (Suryong), ông là tâm điểm của sự sùng bái lãnh tụ trong hệ thống chính trị trong nước ở Triều Tiên.
Tại Đại hội WPK lần thứ 6 năm 1980, con trai lớn của ông Kim Jong-il đã được bầu làm thành viên Đoàn chủ tịch và được chọn làm người thừa kế cho vị trí lãnh đạo tối cao. Sinh nhật của Kim Il-sung là một ngày lễ ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên được gọi là "Ngày của mặt trời". Năm 1998, Kim Il-sung được vinh danh là "Chủ tịch vĩnh viễn của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ". Trong thời kỳ cầm quyền của ông, phương Tây mô tả Triều Tiên là một quốc gia chuyên chế với các hành vi được phương Tây cho là vi phạm nhân quyền trên diện rộng, bao gồm các báo buộc về xử bắn hàng loạt và các trại tù.[7][8]