Lịch sử Ấn Độ (1947–nay)
From Wikipedia, the free encyclopedia
Lịch sử Ấn Độ độc lập bắt đầu khi Ấn Độ trở thành quốc gia độc lập trong Khối Thịnh vượng chung Anh vào ngày 15 tháng 8 năm 1947. Kể từ năm 1858, người Anh đã cai trị trực tiếp và đã ảnh hưởng tới sự thống nhất chính trị và kinh tế của tiểu lục địa này. Khi sự đô hộ của thực dân Anh kết thúc năm 1947, tiểu lục địa Ấn Độ phân chia thành 2 quốc gia dựa trên sự khác biệt tôn giáo, là Ấn Độ với đa số người dân theo đạo Hindu và Pakistan với đa số là người Hồi giáo.[1] Đồng thời, vùng đất phía đông và tây bắc của Ấn Độ thuộc Anh có phần lớn dân cư theo đạo Hồi trở thành Lãnh thổ tự trị Pakistan khi chia cắt Ấn Độ. Việc phân chia này đã kéo theo cuộc di cư của hơn 10 triệu người giữa Ấn Độ - Pakistan và cùng với đó là cái chết của 1 triệu người. Nhà lãnh đạo Đảng Quốc Đại Ấn Độ Jawaharlal Nehru trở thành thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ, nhưng nhà lãnh đạo nổi bật nhất trong cuộc đấu tranh giành độc lập là Mahatma Gandhi không đảm nhiệm chức vụ nào. Hiến pháp được thông qua vào năm 1950 đã đưa Ấn Độ trở thành một quốc gia dân chủ, và nền dân chủ này đã được duy trì kể từ đó. Các quyền tự do dân chủ được duy trì bền vững của Ấn Độ là độc nhất trong số các quốc gia mới độc lập trên thế giới.[2]
Quốc gia này đã phải đối mặt với bạo lực tôn giáo, chủ nghĩa giai cấp, phong trào naxalite (cộng sản cực tả theo chủ nghĩa Mao ở Ấn Độ), chủ nghĩa khủng bố và các cuộc nổi dậy ly khai trong khu vực. Ấn Độ có các tranh chấp lãnh thổ chưa được giải quyết với Trung Quốc mà năm 1962 đã leo thang thành Chiến tranh Trung-Ấn, và với Pakistan dẫn đến các cuộc chiến tranh năm 1947, 1965, 1971 và 1999. Ấn Độ trung lập trong Chiến tranh Lạnh và là nước đi đầu trong Phong trào không liên kết. Tuy nhiên, Ấn Độ đã có liên minh lỏng lẻo với Liên Xô từ năm 1971, khi Pakistan liên minh với Hoa Kỳ và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Ấn Độ là một quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân, đã tiến hành vụ thử hạt nhân đầu tiên vào năm 1974, sau đó là 5 vụ thử khác vào năm 1998. Từ những năm 1950 đến những năm 1980, Ấn Độ thực thi các chính sách lấy cảm hứng từ chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế Ấn Độ chịu ảnh hưởng của các quy định quan liêu, chủ nghĩa bảo hộ và sở hữu công, dẫn đến tham nhũng tràn lan và tăng trưởng kinh tế chậm. Bắt đầu từ năm 1991, những cải cách kinh tế tân tự do đã biến Ấn Độ thành nền kinh tế lớn thứ ba và là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất trên thế giới. Từ một quốc gia tương đối nghèo nàn trong những năm mới thành lập,[3] Cộng hòa Ấn Độ đã nổi lên là một quốc gia G20 phát triển nhanh với chi tiêu quân sự cao[4] và đang tìm kiếm một ghế thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Ấn Độ đôi khi được coi là một cường quốc và một siêu cường tiềm năng với nền kinh tế, quân sự và quy mô dân số lớn và đang phát triển.[5][6][7][8][9][10]