Luật quốc tịch Israel
chế độ quy định về quốc tịch Israel / From Wikipedia, the free encyclopedia
Luật quốc tịch Israel quy định các điều kiện của quốc tịch Israel. Có hai luật quốc tịch chính là Luật hồi hương năm 1950 và Luật quốc tịch năm 1952.
Luật quốc tịch, 5712-1952 חוק האזרחות, התשי"ב-1952 | |
---|---|
Quốc hội Israel | |
Trích dẫn | SH 95 146 |
Phạm vi lãnh thổ | Israel |
Được ban hành bởi | Quốc hội khóa II |
Ngày ban hành | ngày 1 tháng 4 năm 1952[1] |
Ngày bắt đầu | ngày 14 tháng 7 năm 1952[1] |
Lịch sử lập pháp | |
Đọc thứ nhất | ngày 20 tháng 11 năm 1951 |
Đọc thứ hai | ngày 25–26 tháng 3 năm 1952 |
Đọc thứ ba | ngày 1 tháng 4 năm 1952[2] |
Bãi bỏ pháp chế | |
Sắc lệnh quốc tịch Palestine năm 1925 | |
Trạng thái: Thay đổi |
Mọi người Do Thái đều có quyền nhập cư Israel và nhập quốc tịch Israel. Một người sinh ra ở Israel có cha hoặc mẹ là công dân Israel thì có quốc tịch Israel. Người có quốc tịch nước ngoài mà không phải là người Do Thái thì có thể nhập quốc tịch Israel nếu đã thường trú ở Israel ít nhất 3 năm và biết tiếng Hebrew nhưng phải thôi quốc tịch nước ngoài. Công dân Israel người Do Thái và công dân Israel nam gốc Druze và Circassia phải thực hiện nghĩa vụ quân sự, trừ phi sinh hoạt Do Thái giáo Haredi ra.
Israel từng là Lãnh thổ ủy trị Palestine do Hội Quốc Liên giao phó cho Anh. Cư dân Palestine có quốc tịch Anh đặc biệt. Năm 1948, chế độ ủy trị kết thúc, các nước Ả Rập lập tức tuyên chiến với Israel, gây ra nhiều vấn đề quốc tịch cho cư dân Palestine không phải là người Do Thái mà đến nay vẫn chưa được giải quyết.