Nguyễn Văn Thiệu
Tổng thống Việt Nam Cộng hòa từ 1967–1975 / From Wikipedia, the free encyclopedia
Nguyễn Văn Thiệu (5 tháng 4 năm 1923 – 29 tháng 9 năm 2001) là một sĩ quan, chính khách người Việt Nam, người từng giữ chức tổng thống Việt Nam Cộng hòa, Chủ tịch Đảng Dân chủ và Mặt trận Quốc gia Dân chủ Xã hội trong giai đoạn 1967–1975. Trong cương vị một trung tướng bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Nguyễn Văn Thiệu được hội đồng tướng lĩnh bầu làm Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, trở thành Quốc trưởng Việt Nam Cộng hòa vào năm 1965. Là một chính trị gia theo đường lối chống cộng mạnh mẽ, ông đắc cử tổng thống sau khi giành chiến thắng trong một cuộc bầu cử diễn ra vào năm 1967 và nắm giữ cương vị này cho đến khi từ chức chỉ vài ngày trước khi chính quyền Sài Gòn đầu hàng chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong sự kiện 30 tháng 4 năm 1975.
Nguyễn Văn Thiệu | |||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Thiệu vào năm 1969 | |||||||||||||||||||||||||||||||||
Tổng thống Việt Nam Cộng hòa thứ 2 | |||||||||||||||||||||||||||||||||
Nhiệm kỳ 31 tháng 10 năm 1967 – 21 tháng 4 năm 1975 (7 năm, 172 ngày) | |||||||||||||||||||||||||||||||||
Thủ tướng |
| ||||||||||||||||||||||||||||||||
Phó Tổng thống |
| ||||||||||||||||||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Bản thân (dưới vai trò Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia) | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Kế nhiệm | Trần Văn Hương | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia Việt Nam Cộng hòa | |||||||||||||||||||||||||||||||||
Nhiệm kỳ 14 tháng 6 năm 1965 – 31 tháng 10 năm 1967 (2 năm, 139 ngày) | |||||||||||||||||||||||||||||||||
Thủ tướng | Nguyễn Cao Kỳ | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Phan Khắc Sửu (với tư cách Quốc trưởng) | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Kế nhiệm | Chức vụ bị bãi bỏ | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Tổng trưởng Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa | |||||||||||||||||||||||||||||||||
Nhiệm kỳ 16 tháng 2 năm 1965 – 20 tháng 6 năm 1965 (124 ngày) | |||||||||||||||||||||||||||||||||
Thủ tướng | Phan Huy Quát | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Tiền nhiệm | Trần Văn Minh | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Kế nhiệm | Nguyễn Hữu Có | ||||||||||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||||||||||
Thông tin cá nhân | |||||||||||||||||||||||||||||||||
Sinh | (1923-04-05)5 tháng 4 năm 1923 Ninh Hải, Ninh Thuận, Trung Kỳ, Liên bang Đông Dương | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Mất | 29 tháng 9 năm 2001(2001-09-29) (78 tuổi) Boston, Massachusetts, Hoa Kỳ | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Nguyên nhân mất | Tai biến mạch máu não | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Đảng chính trị | Mặt trận Quốc gia Dân chủ Xã hội (1969–1975) | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Đảng khác |
| ||||||||||||||||||||||||||||||||
Phối ngẫu | |||||||||||||||||||||||||||||||||
Con cái | 4 (xem chi tiết) | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Alma mater | Trường Võ bị Quốc gia Huế | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Nghề nghiệp |
| ||||||||||||||||||||||||||||||||
Chữ ký | |||||||||||||||||||||||||||||||||
Phục vụ trong quân đội | |||||||||||||||||||||||||||||||||
Thuộc | Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (tới 1946) Quốc gia Việt Nam Việt Nam Cộng hòa | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Phục vụ | Việt Minh (tới 1946) Quân đội Quốc gia Việt Nam Lục quân Việt Nam Cộng hòa | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Năm tại ngũ | 1945–1967 | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Cấp bậc | Trung tướng | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Chỉ huy | Xem chi tiết:
Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt (1956–60) Sư đoàn 7 Bộ binh (1960–61) Sư đoàn 1 Bộ binh (1961–62) Sư đoàn 5 Bộ binh (1962–64) Quân đoàn IV và Vùng 4 chiến thuật (1964–65) | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Tham chiến | Đảo chính năm 1960 Đảo chính năm 1963 |
Sinh ra tại Phan Rang, duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam, Nguyễn Văn Thiệu ban đầu gia nhập lực lượng Việt Minh vào năm 1945, nhưng ông đào ngũ và tìm đường vào Sài Gòn chỉ một năm sau đó. Tại đây, ông gia nhập lực lượng Quân đội Quốc gia Việt Nam thuộc Liên hiệp Pháp. Sau khi người Pháp rút khỏi Đông Dương, Quân đội Quốc gia dần chuyển đổi thành Quân lực Việt Nam Cộng hòa còn Nguyễn Văn Thiệu trở thành Chỉ huy trưởng Trường Võ bị Đà Lạt trước khi được thăng cấp đại tá và trở thành một tư lệnh sư đoàn. Tháng 11 năm 1963, Nguyễn Văn Thiệu tham gia đảo chính lật đổ anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu. Sau đó, ông được thăng cấp bậc thiếu tướng và bắt đầu tham chính. Nền chính trị Việt Nam Cộng hòa bước vào một giai đoạn bất ổn khi các cuộc đảo chính thường xuyên diễn ra. Bằng cách hành xử khôn khéo, Nguyễn Văn Thiệu leo lên vị trí hàng đầu trong bộ máy quyền lực Sài Gòn giữa lúc các sĩ quan xung quanh ông vướng vào những cuộc đấu đá và thanh trừng nội bộ. Năm 1965, tại thời điểm Nguyễn Văn Thiệu được Hội đồng Quân lực bầu vào chức vụ quốc trưởng thì nền chính trị miền Nam đã dần ổn định trở lại.
Năm 1967, quá trình chuyển dịch từ chính quyền quân sự thành một chính phủ dân sự ở miền Nam Việt Nam được lên kế hoạch. Sau những cuộc tranh giành quyền lực ngay bên trong nội bộ quân đội, Nguyễn Văn Thiệu, trong liên danh cùng Nguyễn Cao Kỳ, tham gia tranh cử tổng thống và giành chiến thắng. Tuy nhiên, căng thẳng bên trong bộ máy lãnh đạo ngày càng trở nên rõ rệt. Nguyễn Văn Thiệu tìm cách vô hiệu hóa Nguyễn Cao Kỳ bằng việc loại bỏ những người ủng hộ ông Kỳ ra khỏi các vị trí trọng yếu trong quân đội và nội các. Để nắm chắc phần thắng trong cuộc bầu cử năm 1971, Nguyễn Văn Thiệu tiến hành áp đặt các quy định mới, ngăn cấm quyền tham gia tranh cử của hầu hết ứng cử viên. Số người còn lại, trong đó có Nguyễn Cao Kỳ, đều tự rút tư cách ứng cử viên vì biết trước rằng cuộc bầu cử sẽ có gian lận. Là ứng cử viên duy nhất tham gia tranh cử tổng thống, Nguyễn Văn Thiệu tái đắc cử với 94% số phiếu.
Trong thời gian nắm quyền, Nguyễn Văn Thiệu bị chỉ trích là đã làm ngơ trước tệ nạn tham nhũng tràn lan. Ông cũng bị cáo buộc là chỉ bổ nhiệm những người trung thành với mình thay vì những sĩ quan có năng lực vào các vị trí chỉ huy trong quân đội. Trong Chiến dịch Lam Sơn 719 năm 1971 và Chiến dịch Xuân – Hè 1972, Quân lực Việt Nam Cộng hòa phải hứng chịu những tổn thất nặng nề do sự thiếu năng lực của các tướng lĩnh dưới trướng ông Thiệu. Sau khi Hiệp định Paris được ký kết vào năm 1973, chính quyền Sài Gòn tiếp tục chống cự thêm hai năm trước khi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phát động tổng tấn công. Trước sức tấn công mạnh mẽ của đối phương, Nguyễn Văn Thiệu, trên cương vị tổng tư lệnh, đã mắc phải những sai lầm chiến lược bao gồm quyết định rút quân hoàn toàn khỏi Cao nguyên Trung phần và dẫn đến những cuộc tháo chạy hỗn loạn lẫn sự tan rã dây chuyền của hàng loạt cứ điểm quân sự. Tuy tuyên bố tái ngũ với cấp bậc trung tướng và sẽ tiếp tục chiến đấu sau khi từ chức, nhưng Nguyễn Văn Thiệu đã bí mật rời khỏi Việt Nam, di tản ra nước ngoài rồi cuối cùng định cư ở Hoa Kỳ cho đến khi qua đời.