Trận Moskva (1941)
chiến dịch trong Thế chiến II / From Wikipedia, the free encyclopedia
Trận Moskva là một trong những trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Xô-Đức và Thế chiến thứ hai vào cuối năm 1941 và đầu năm 1942. Với quân số và vũ khí tham chiến hết sức đông đảo, trận quyết chiến này kéo dài tới 7 tháng.[12] Đây là trận đánh giữa quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc xã vì mục tiêu chiếm thành phố Moskva, thủ đô của Liên bang Xô Viết. Trận này có tầm quan trọng bậc nhất cả về quân sự, chính trị cũng như tâm lý trong Thế chiến thứ hai. Vốn quân Đức đã gần chiếm được thủ đô Moskva, nhưng họ đã vấp phải sự kháng cự hết sức mãnh liệt của quân Liên Xô, và chịu nhiều mất mát. Để rồi, một cuộc phản công mang tính chiến lược của quân Liên Xô đã dập tắt hoàn toàn kế hoạch của Đức Quốc xã nhằm nhanh chóng đánh thắng Liên Xô.[13] Đầu năm 1942, quân Đức đã bị đẩy lui hẳn khỏi Moskva.[14]
Bài viết này có nhiều vấn đề. Xin vui lòng giúp đỡ cải thiện nó hoặc thảo luận về những vấn đề này trên trang thảo luận.
|
Trận Moskva | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến tranh Xô-Đức trong Thế chiến thứ hai | |||||||
Các xe tăng T-26 của Liên Xô chuẩn bị cho cuộc phản công ở ngoại vi Moskva, mùa đông 1941-1942 | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Đức |
Liên Xô | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Walther von Brauchitsch Fedor von Bock Heinz Guderian Hermann Hoth Erich Höpner |
Georgy Zhukov Boris Shaposhnikov Aleksandr Vasilevsky Ivan Koniev Andrey Yeryomenko | ||||||
Lực lượng | |||||||
Tổng số binh lực được huy động trong toàn bộ chiến dịch theo Liên Xô: |
Giai đoạn phòng ngự: 1.252.500 lính[6], Giai đoạn phản công: 1.021.700 lính[7], hơn 10.500 pháo và súng cối (trong đó có 1.200 pháo chống tăng), 1.044–3232 xe tăng 545 máy bay[2] | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
Theo Liên Xô: |
Giai đoạn phòng ngự: | ||||||
Sau trận đánh này, cho dù Liên Xô chỉ tạm thời giành thế thượng phong,[1] với sự thất bại hoàn toàn của chiến tranh đánh nhanh thắng nhanh (hay còn gọi là chiến tranh chớp nhoáng) của Đức, nước Đức Quốc xã buộc phải chấp nhận tiến hành chiến tranh tiêu hao kéo dài với đối thủ là cường quốc rộng lớn nhất thế giới, đông dân với tiềm lực chiến tranh ngày càng được huy động mạnh hơn. Như một chiến thắng bước ngoặt của quân đội Liên Xô trong suốt cuộc chiến[1], thất bại lớn đầu tiên của quân đội Đức Quốc xã ngay trước cửa ngõ Moskva đã báo trước thất bại của nước Đức Quốc xã trong toàn bộ cuộc chiến tranh. Lần đầu tiên, các "chiến binh vô địch" của Hitler đã phải tháo chạy trước một đối thủ hùng mạnh ngang ngửa mình. Hồng quân Liên Xô đã chiến đấu với tất cả sự kiên trì, nỗ lực và quả cảm.[13][14] Cùng với thất bại trong trận không chiến tại Anh Quốc, thảm họa Moskva - một thất bại mà người Đức không thể tưởng đến[13] - cho thấy nền Đệ Tam Đế chế Đức đã bắt đầu xuống dốc ngay khi đã đạt tới đỉnh cao của mình.[15] Sau thất bại này, nước Đức bước vào năm 1942 với cơn đại chiến chưa xong trên cả hai mặt trận.[16] Cũng sau thắng lợi của quân Liên Xô ở trận Moskva, đời sống của thị dân thành phố này trở lại yên bình như xưa, dù đại thắng này vẫn chưa đem lại thất bại hoàn toàn cho phát xít Đức trong cuộc chiến.[14][17] Trong chiến thắng quan trọng ấy, thị dân (trong đó có cả phụ nữ) và các đội du kích Moskva đã đóng góp rất đáng kể và gây khó khăn to lớn cho quân Đức.[13]
Sau thất bại này, người Đức bắt đầu liên tưởng đến chiến bại của Napoleon trong cuộc xâm lược nước Nga hồi năm 1812.[13] Hitler tức giận, đã cách chức nhiều bại tướng và đích thân nắm quyền chỉ huy quân đội[14]. Thảm họa Moskva, cùng với các chiến bại ở trận Leningrad và trận Stalingrad, đánh dấu sự thất bại của Hitler trong việc xâm chiếm Liên bang Xô viết,[15] khắc hẳn với cuộc chinh phạt nhiều nước châu Âu của ông.[14]