Roman von Ungern-Sternberg
From Wikipedia, the free encyclopedia
Roman Nikolai Maximilian von Ungern-Sternberg (tiếng Nga: Ро́берт-Ни́колай-Максими́лиан фон У́нгерн-Ште́рнберг)[1] (29 tháng 12 năm 1885 – 15 tháng 9 năm 1921) là một trung tướng chống Bolshevik trong Nội chiến Nga và sau đó là một quân phiệt độc lập từng đoạt quyền kiểm soát Ngoại Mông Cổ từ quân đội Trung Quốc vào năm 1921.
Bài này có liệt kê các nguồn tham khảo và/hoặc liên kết ngoài, nhưng nội dung trong thân bài cần được dẫn nguồn đầy đủ bằng các chú thích trong hàng để người khác có thể kiểm chứng. (tháng 3/2024) |
Freiherr Roman Nikolai Maximilian von Ungern-Sternberg | |
---|---|
Roman Fyodorovich von Ungern-Sternberg, năm 1921, trong đồng phục deel Mông Cổ | |
Sinh | (1885-12-29)29 tháng 12, 1885 Graz, Áo-Hung |
Mất | 15 tháng 9, 1921(1921-09-15) (35 tuổi) Novosibirsk, nước Nga Xô viết |
Thuộc | Đế quốc Nga Đại Mông Cổ Quốc |
Quân chủng |
|
Năm tại ngũ | 1906 - 1921 |
Quân hàm | Trung tướng |
Chỉ huy | Sư đoàn kị binh châu Á |
Tham chiến | |
Khen thưởng |
|
Ungern-Sternberg bị Phật giáo huyền bí thu hút, có tính cách lập dị, và đối xử bạo lực với các địch thủ cùng các binh sĩ dưới quyền, do vậy ông được gán biệt hiệu là "Nam tước Điên" trong Nội chiến Nga. Ông cũng là người theo chủ nghĩa liên quân chủ, mong muốn khôi phục chế độ quân chủ Nga dưới quyền Mikhail Aleksandrovich Romanov và khôi phục Đại Mông Cổ Quốc dưới quyền cai trị của Bogd Khan. Trong năm tháng chiếm lĩnh Ngoại Mông, Ungern-Sternberg áp đặt trật tự tại thủ đô Ikh Khüree thông qua lo sợ, hăm dọa, và bạo lực chống lại các đối thủ, đặc biệt là những người ủng hộ Bolshevik.
Sau đó, vào tháng 6 năm 1921, ông xâm chiếm miền nam Siberia nhằm ủng hộ các cuộc nổi dậy chống Bolshevik và nhằm ngăn chặn một cuộc xâm nhập của Hồng quân và du kích Mông Cổ, kết quả ông thất bại và bị bắt giữ hai tháng sau đó. Ông bị Hồng quân bắt làm tù binh và xét xử vì tội phản cách mạng tại Novonikolaevsk, ông bị kết án tử hình rồi bị hành quyết vào ngày 15 tháng 9 cùng năm.