AIM-9 Sidewinder
From Wikipedia, the free encyclopedia
AIM-9 Sidewinder (viết tắt của Air Intercept Missile-tên lửa đánh chặn) là một loại tên lửa không đối không tầm ngắn. Nó được đưa vào trang bị cho Hải quân Hoa Kỳ vào năm 1956 và sau đó là trong Không quân Hoa Kỳ vào năm 1964. Kể từ khi đi vào hoạt động, Sidewinder đã trở thành một loại tên lửa rất nổi tiếng, và các phiên bản mới nhất vẫn còn được trang bị trong không quân của các nước phương Tây.[3] Tên lửa K-13 của Liên Xô, là một phiên bản copy của AIM-9, và cũng được triển khai tại nhiều quốc gia.
Tên lửa không đối không AIM-9 Sidewinder | |
---|---|
Phiên bản AIM-9L | |
Loại | Tên lửa không đối không tầm ngắn |
Nơi chế tạo | Hoa Kỳ |
Lược sử hoạt động | |
Phục vụ | 1956–nay |
Lược sử chế tạo | |
Nhà sản xuất | Công ty Raytheon[1] Ford Aerospace Loral Corp. |
Giá thành | |
Giai đoạn sản xuất | 1953-nay |
Thông số | |
Khối lượng | 188 pound (85,3 kg)[1] |
Chiều dài | 9 foot 11 inch (3,02 m)[1] |
Đường kính | 5 in (127,0 mm)[1] |
Đầu nổ | WDU-17/B đầu nổ văng mảnh dạng thanh hình khuyên[1] |
Trọng lượng đầu nổ | 20,8 lb (9,4 kg)[1] |
Cơ cấu nổ mechanism | IR proximity fuze |
Động cơ | Hercules/Bermite Mk. 36 solid-fuel rocket |
Sải cánh | 11 in (279,4 mm) |
Tầm hoạt động | 0,6 đến 22 dặm (1,0 đến 35,4 km) |
Tốc độ | Mach 2,5+[1] |
Hệ thống chỉ đạo | Đầu dò hồng ngoại (trên hầu hết các phiên bản) tự dẫn radar bán chủ động (AIM-9C) |
Nền phóng | Máy bay chiến đầu, tàu chiến, bệ phóng cố định, và xe thiết giáp. |
Các phát triển ở mức độ thấp đã được tiến hành từ cuối những năm 1940, và có những đột phá vào những năm 1950 với hệ thống dẫn đường module của tên lửa không đối đất Zuni.[4][5] Tính module của tên lửa cho phép đưa vào sử dụng các đầu dò và động cơ tên lửa mới, bao gồm ở phiên bản AIM-9C, sử dụng radar dẫn đường bán chủ động và là cơ sở để phát triển tên lửa chống radar AGM-122 Sidearm. Các phiên bản đầu tiên của AIM-9 đã được sử dụng ở trong Chiến tranh Việt Nam nhưng có tỉ lệ bắn hạ mục tiêu thấp. Điều này dẫn đến việc quân đội Mỹ đã phát triển phiên bản hoàn toàn mới (AIM-9 L) có năng lực tác chiến cao được thể hiện trong cuộc chiến đảo Falklands và trong Chiến dịch Mole Cricket 19 tại Liban. Khả năng thích ứng của loại tên lửa này khiến cho nó vẫn được giữ trong trang bị của quân đội Mỹ dù cho các loại tên lửa mới như AIM-95 Agile và SRAAM được phát triển để thay thế nó.
Sidewinder là loại tên lửa không đối không được biết đến rộng rãi nhất ở các nước phương Tây, với hơn 110.000 tên lửa được sản xuất cung cấp cho quân đội Mỹ và 27 quốc gia đồng minh, với khoảng 1 phần trăm đã được sử dụng trong không chiến. AIM-9 cũng được chế tạo theo giấy phép tại một số quốc gia khác như Thụy Điển, và có thể được trang bị trên máy bay trực thăng, ví dụ như Bell AH-1Z Viper. AIM-9 là một trong những loại tên lửa không đối không rẻ nhất, có tuổi đời lâu nhất và là loại tên lửa không đối không hiệu quả nhất, ước tính nó đã tiêu diệt được 270 máy bay trong các cuộc không chiến.[6] Khi sử dụng tên lửa Sidewinder,[lower-roman 1] các phi công của NATO sử dụng mã tên gọi FOX-2.
Hải quân Hoa Kỳ đã kỷ niệm 50 năm đưa Sidewinder vào trang bị vào năm 2002. Tháng 3 năm 2010, Boeing đã dành được hợp đồng cung cấp Sidewinder cho quân đội đến năm 2055, đảm bảo AIM-9 sẽ vẫn còn trong trang bị quân đội Mỹ đến ít nhất là năm 2055.