Aleksandr III của Nga
From Wikipedia, the free encyclopedia
Aleksandr III Aleksandrovich (sinh ngày 10 tháng 3 [lịch cũ 26 tháng 2] năm 1845 – mất ngày 1 tháng 11 [lịch cũ 20 tháng 10] năm 1894) (tiếng Nga: Александр III Александрович, Aleksandr III Aleksandrovich) là vị Hoàng đế, hay Sa hoàng áp chót của đế quốc Nga từ ngày 13 tháng 3 năm 1881 tới khi qua đời năm 1894. Ông là một thành viên của nhà Romanov, cũng làm Đại vương công xứ Phần Lan và Vua Ba Lan. Khác với cha mình là Aleksandr Đệ nhị - một người theo xu hướng tự do, Aleksandr Đệ tam được sử sách ghi nhận là một Nga hoàng có tư tưởng bảo thủ và chuyên chế.[1]
Aleksandr Đệ tam Александр III | |||
---|---|---|---|
Hoàng đế, Sa hoàng nước Nga | |||
Tại vị | 13 tháng 3 năm 1881 – 1 tháng 11 năm 1894 12 năm, 294 ngày | ||
Đăng quang | 27 tháng 5 (15 tháng 5 lịch cũ) năm 1881 | ||
Tiền nhiệm | Aleksandr Đệ nhị | ||
Kế nhiệm | Nikolai II | ||
Thông tin chung | |||
Sinh | (1845-03-10)10 tháng 3 năm 1845 Saint Petersburg, Nga | ||
Mất | 1 tháng 11 năm 1894(1894-11-01) (49 tuổi) Livadiya, Krym | ||
Hoàng hậu | Maria Feodorovna (Dagmar của Đan Mạch) | ||
Hậu duệ | Nikolai Đệ nhị Đại vương công Alexander Alexandrovich Đại vương công George Alexandrovich Nữ Đại vương công Xenia Alexandrovna Đại vương công Michael Alexandrovich Nữ Đại vương công Olga Alexandrovna | ||
Tước vị |
| ||
Hoàng tộc | Nhà Holstein-Gottorp-Romanov | ||
Thân phụ | Aleksandr II của Nga | ||
Thân mẫu | Marie của Hesse và Rhine | ||
Chữ ký |
Sau khi Aleksandr Đệ nhị bị ám sát, vị vua mới lập tức xóa bỏ những dự định của vua cha nhằm thành lập Hội đồng Đại biểu và tuyên bố ông sẽ không hạn chế quyền hành chuyên chính của chế độ Nga hoàng.[2]
Nga hoàng Aleksandr Đệ tam đã thực hiện chính sách trấn áp những người mong muốn cải cách chính trị và người Do Thái, cũng là những người không phải là thành viên của Giáo hội Chính Thống giáo Đông phương. Ông cũng thực hiện chính sách Nga hóa các cộng đồng dân tộc thiểu số, chẳng hạn như bắt những người Đức, Ba Lan và Phần Lan sống trong đế quốc Nga phải học tiếng Nga.[2] Dưới triều ông, đế quốc Nga có nền kinh tế phát triển và không vướng vào một cuộc chiến tranh nào.[3]