Béo phì
From Wikipedia, the free encyclopedia
Béo phì là một tình trạng bệnh lý, đôi khi được xem là một căn bệnh,[8][9][10] trong đó mô mỡ trong cơ thể đã tích tụ đến mức có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe một cách tiêu cực. Những người được phân loại là béo phì khi chỉ số khối cơ thể (BMI) của họ - cân nặng của một người chia cho bình phương chiều cao của người đó - vượt quá 30 kg/m2; với phạm vi 25–30 kg/m2 được định nghĩa là thừa cân.[1] Một số nước Đông Á sử dụng giá trị thấp hơn để tính béo phì.[11] Béo phì là nguyên nhân chính gây ra tình trạng khuyết tật và bệnh tật liên quan đến béo phì, đặc biệt là bệnh tim mạch, đái tháo đường loại 2, ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn, một số loại ung thư và thoái hóa khớp.[2][12][13]
Béo phì | |
---|---|
Hình dáng và vòng eo tượng trưng cho tình trạng tối ưu, thừa cân và béo phì | |
Khoa/Ngành | Nội tiết học |
Triệu chứng | Tăng mỡ[1] |
Biến chứng | Bệnh tim mạch, đái tháo đường loại 2, ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn, một số loại ung thư, thoái hóa khớp, trầm cảm[2][3] |
Nguyên nhân | Tiêu thụ quá nhiều thực phẩm giàu năng lượng, công việc và lối sống ít vận động cũng như thiếu hoạt động thể chất, thay đổi phương thức đi lại, đô thị hóa, thiếu chính sách hỗ trợ, thiếu khả năng tiếp cận chế độ ăn uống lành mạnh, vấn đề di truyền[1][4] |
Phương pháp chẩn đoán | Chỉ số khối cơ thể (Body mass index; viết tắt: BMI) > 30 kg/m2[1] |
Phòng ngừa | Những thay đổi xã hội, thay đổi trong ngành công nghiệp thực phẩm, tiếp cận lối sống lành mạnh, lựa chọn cá nhân[1] |
Điều trị | Ăn kiêng, tập thể dục, dùng thuốc, phẫu thuật[5][6] |
Tiên lượng | Giảm tuổi thọ[2] |
Dịch tễ | Trên 1 tỷ/12.5% (2022)[7] |
Tử vong | 2,8 triệu người mỗi năm |
Béo phì có nguyên nhân cá nhân, kinh tế xã hội và môi trường. Một số nguyên nhân như chế độ ăn uống, hoạt động thể chất, tự động hóa, đô thị hóa, tính trạng số lượng, thuốc men, rối loạn tâm thần, chính sách kinh tế, rối loạn nội tiết và tiếp xúc với các chất gây rối loạn nội tiết.[1][4][14][15]
Mặc dù phần lớn những người béo phì luôn cố gắng giảm cân và nhiều trường hợp thành công nhưng việc duy trì giảm cân lâu dài là rất hiếm.[16] Không có biện pháp can thiệp cụ thể nào cho thấy hiệu quả rõ ràng để ngăn ngừa béo phì. Việc phòng ngừa béo phì đòi hỏi một cách tiếp cận phức tạp, bao gồm các biện pháp can thiệp ở cấp độ xã hội, cộng đồng, gia đình và cá nhân.[1][13] Các chuyên gia y tế thường khuyên cần thay đổi chế độ ăn uống cũng như tập thể dục.[2] Chế độ ăn uống có thể được cải thiện bằng cách giảm tiêu thụ thực phẩm giàu năng lượng, chẳng hạn như những thực phẩm giàu chất béo hoặc đường, thay vào đó tăng lượng chất xơ ăn vào, nếu những lựa chọn dành cho chế độ ăn uống này có sẵn, giá cả phải chăng và dễ tiếp cận.[1] Để làm giảm cảm giác thèm ăn hoặc giảm hấp thu chất béo có thể sử dụng thuốc giảm cân cùng với chế độ ăn uống phù hợp.[5] Nếu chế độ ăn kiêng, tập thể dục và dùng thuốc không hiệu quả, có thể thực hiện nong bóng dạ dày hoặc phẫu thuật để làm giảm thể tích dạ dày hoặc chiều dài của ruột. Các can thiệp trên tạo cảm giác no sớm hơn hoặc giảm khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng từ thức ăn.[6][17]
Béo phì là nguyên nhân tử vong hàng đầu có thể phòng ngừa được với tỷ lệ ngày càng tăng ở người lớn và trẻ em trên toàn thế giới.[18] Năm 2022, hơn 1 tỷ người bị béo phì trên toàn thế giới (879 triệu người lớn và 159 triệu trẻ em), tăng hơn gấp đôi số trường hợp ở người lớn (và cao gấp bốn lần so với các trường hợp ở trẻ em) được thống kê vào năm 1990.[19][20] Béo phì phổ biến ở phụ nữ hơn là nam giới.[1] Ngày nay, béo phì bị kỳ thị ở hầu hết mọi nơi trên thế giới. Ngược lại, một số nền văn hóa, trong quá khứ và hiện tại, lại có quan điểm tích cực về béo phì, coi đó là biểu tượng của sự giàu có và sinh đẻ tốt.[2][21] Tổ chức Y tế Thế giới, Mỹ, Canada, Nhật Bản, Bồ Đào Nha, Đức, Nghị viện châu Âu và các hiệp hội y tế, ví dụ như Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ, đã phân loại béo phì là một căn bệnh. Những nước khác, chẳng hạn như Vương quốc Anh thì không chấp nhận điều đó.[22][23][24][25]