Chiến tranh Krym
Chiến tranh giữa Liên minh Đế quốc Anh-Pháp-Ottoman chống lại Đế quốc Nga / From Wikipedia, the free encyclopedia
Chiến tranh Krym (tiếng Nga: Крымская война hoặc Восточная война, chuyển tự: Krymskaja wojna hoặc Wostotschnaja wojna, tiếng Anh: Crimean War) bắt đầu từ năm 1853 và chấm dứt năm 1856, giữa hai lực lượng quân sự châu Âu, phe đồng minh gồm Đế quốc Pháp, Đế quốc Anh, Đế quốc Ottoman và Vương quốc Sardegna chống lại Đế quốc Nga. Cuộc chiến tranh này còn được người đương thời gọi là Chiến tranh nước Nga.[12] Phần lớn các trận chiến xảy ra trên bán đảo Krym, những trận nhỏ hơn tại miền tây Thổ Nhĩ Kỳ và vùng biển Baltic. Một trong những lý do gây ra cuộc chiến là việc chính phủ Nga hoàng bảo hộ cho các thần dân Chính Thống giáo nằm dưới ách thống trị của Đế quốc Ottoman.[13] Cuộc chiến tranh tàn khốc này mở đầu với việc Thổ Nhĩ Kỳ tuyên chiến với Nga vào năm 1853, với trận đánh tại Oltenitza cùng năm đó, khi một cuộc tiến công của quân Nga bị quân Thổ Nhĩ Kỳ đập tan. Nhưng sau đó, trong trận thủy chiến Sinope hải quân Nga đánh bại hải quân Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, quân Thổ Nhĩ Kỳ cũng chọc thủng được vòng vây của quân Nga ở Silistria. Sau đó Anh và Pháp lần lượt tuyên chiến với Nga.[14][15][16]
Bạn có thể mở rộng bài này bằng cách dịch bài viết tương ứng từ Tiếng Pháp. (tháng 6/2023) Nhấn [hiện] để xem các hướng dẫn dịch thuật.
|
Chiến tranh vùng Krym | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Tranh của Franz Roubaud Cuộc bao vây Sevastopol. | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Pháp Đế quốc Ottoman Đế quốc Anh Sardegna | Nga | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Napoléon III Armand Jacques Leroy de Saint-Arnaud † François Certain th Canrobert Abdul Mejid I Abdülkerim Nadir Pasha Omar Pasha James Brudenell, Bá tước Cardigan thứ 7 FitzRoy Somerset, Nam tước Ragdan thứ nhất † Edmund Lyons, Nam tước Lyons thứ nhất Alfonso La Marmora |
Nikolai I Aleksandr II Mikhail Gortchakov Ivan Paskevich † Pavel Nakhimov † Eduard Totleben Mikhail Semyonovich Vorontsov Aleksandr Sergeyeich Menshikov Vasily Zavoyko | ||||||
Lực lượng | |||||||
Tổng cộng: 673,900 235,568[1] 309,268[2] 107,864[2] 21,000[2] |
Tổng cộng: 889,000[2] 888.000 huy động 324.478 đã triển khai | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
Tổng số 252.000 tử vong, trong đó 70.000 thương vong trong trận chiến[3] Pháp: Tổng số tử vong khoảng 100.000[4] trong đó 10.240 chết trận; 20.000 chết vì bị thương; khoảng 75.000 chết bệnh Anh: 2.755 chết trận; 2.019 chết vì bị thương; 16.323 chết bệnh Sardinia: 2.050 chết vì nhiều nguyên nhân[5] Thổ Nhĩ Kỳ: Tổng số chết và bị thương ước khoảng 200.000.[6] Tổng số chết ước 50.000[7] | Khoảng 522.000[6][8] bị chết trận, bị thương và chết bệnh [9], trong đó chết 60.000[10] tới 110.000[5][11] |
Chiến tranh vùng Krym được xem là chiến tranh hiện đại đầu tiên trong lịch sử, trong đó kỹ thuật quân sự có phần tân tiến hơn những cuộc chiến tranh trước và thay đổi hình thức của các cuộc chiến tranh sau đó[17]. Cuộc công kích anh dũng của Tiểu Lữ đoàn Anh Quốc nhằm vào quân Nga vào năm 1854 tuy thất bại, nhưng trở thành biểu tượng của tinh thần trách nhiệm cũng như kỷ cương cao.[12] Cuộc đấu tranh bảo vệ Sevastopol (1855) của quân Nga trước liên quân Anh - Thổ - Pháp cũng vậy, tuy là thất bại của Quân đội Nga nhưng được xem là một chiến thắng về tinh thần của họ.[18] Vào năm 1856, các nước Anh, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ và Sardinia đã giành được chiến thắng.[16] Quân đội Nga - đội quân tinh nhuệ nhất của châu Âu trong con mắt của Nga hoàng Nikolai I - đã đại bại.[13] Nước Nga bị mất chủ quyền ở biển Đen - một thành quả của Nữ hoàng Ekaterina II Đại Đế.[19]