Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên (1592–1598)
Chiến tranh 1592-1598 với 2 giai đoạn khi mà liên quân Minh-Triều Tiên đánh lui Nhật / From Wikipedia, the free encyclopedia
Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên, còn gọi là Chiến tranh Triều - Nhật (hangul: 조일전쟁, hanja: 朝日戰爭, Joil jeonjaeng) hay Chiến dịch Văn Lộc - Khánh Trường (kanji: 文禄・慶長の役, hiragana: ぶんろく・けいちょうのえき, Bunroku・Keichō no eki) là tên gọi chung chỉ đến hai cuộc xâm lược riêng biệt nhưng có liên quan với nhau của Nhật Bản vào Triều Tiên: cuộc xâm lược đầu tiên vào năm 1592, sử Triều Tiên gọi là Nhâm Thìn Oa loạn (hangul: 임진왜란, hanja: 壬辰倭亂, Imjin waeran), sử Nhật gọi là Văn Lộc chi dịch (kanji: 文禄の役, hiragana: ぶんろくのえき, Bunroku no eki); tạm ngừng với một thỏa thuận đình chiến ngắn vào năm 1596; và một cuộc xâm lược thứ hai vào năm 1597, sử Triều Tiên gọi là Đinh Dậu tái loạn (hangul: 정유재란, hanja: 丁酉再亂, Jeongyu jaeran ), sử Nhật gọi là Khánh Trường chi dịch (kanji: 慶長の役, hiragana: けいちょうのえき, Keichō no eki). Cuộc xâm lực kết thúc vào năm 1598 với việc các lưc lượng Nhật Bản rút khỏi bán đảo Triều Tiên sau một loạt bế tắc quân sự ở các tỉnh phía nam Triều Tiên.
Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Tranh vẽ Hải quân Nhật Bản đổ bộ vào Busan | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Bán đảo Triều Tiên dưới thời nhà Triều Tiên Trung Quốc dưới thời nhà Minh | Nhật Bản dưới thời Gia tộc Toyotomi | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Nhà Triều Tiên Đại Minh |
Nhật Bản Asano Yoshinaga | ||||||
Lực lượng | |||||||
Triều Tiên Trung Quốc |
Nhật Bản Lần thứ hai (1597–1598) 1.000 tàu hải quân (một số được trang bị đại bác) | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
Triều Tiên: khoảng 260.000 chết hoặc bị thương, 20.000 - 100.000 bị bắt, 157 tàu bị đánh chìm Trung Quốc: khoảng 36.000 chết[5][6] | Nhật Bản: ít nhất 100.000 chết, ít nhất 460 tàu bị đánh chìm | ||||||
Tổng số quân + dân: ~1.000.000 (khoảng 20% dân số Triều Tiên khi đó) |
Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên | |||||||
Tên tiếng Nhật | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Kanji | 文禄の役 / 慶長の役 | ||||||
| |||||||
Tên tiếng Trung | |||||||
Phồn thể | 壬辰衛國戰爭(萬曆朝鮮之役) | ||||||
Giản thể | 壬辰卫国战争(万历朝鲜之役) | ||||||
| |||||||
Tên tiếng Triều Tiên | |||||||
Hangul | 임진왜란 / 정유재란 | ||||||
Hanja | 壬辰倭亂 / 丁酉再亂 | ||||||
|
Các cuộc xâm lược được phát động bởi Toyotomi Hideyoshi với mục đích chinh phục nhà Triều Tiên và nhà Minh.[7]. Người Nhật nhanh chóng thành công trong việc chiếm phần lớn bán đảo Triều Tiên nhưng dưới sự chi viện của nhà Minh, cũng như việc đánh phá các đường tiếp tế dọc theo bờ biển phía tây và phía nam của hải quân Triều Tiên, đã buộc quân Nhật phải rút khỏi Bình Nhưỡng và các tỉnh phía bắc. Chính Nghĩa quân (dân quân Triều Tiên) tiến hành chiến tranh du kích chống lại lực lượng chiếm đóng Nhật và những khó khăn trong việc tiếp tế ở cả 2 bên tham chiến. Vì vậy mà không phe nào phát động tấn công hoặc mở rộng vùng kiểm soát, việc này dẫn đến bế tắc về mặt quân sự. Giai đoạn đầu tiên của cuộc xâm lược kết thúc vào năm 1596 bằng các cuộc đàm phán hòa bình và không mấy thành công giữa Nhật Bản và Nhà Minh.
Năm 1597, Nhật Bản tiếp tục xâm lược Triều Tiên lần thứ hai nhắm đến việc tấn công trả đũa người Triều Tiên. Cuộc xâm lược thứ hai cũng giống như cuộc xâm lược thứ nhất. Người Nhật đã có những thành công ban đầu trên đất liền, chiếm được một số tòa thành và pháo đài. Tuy nhiên với việc đánh phá các tuyến đường tiếp tế của hải quân Triều Tiên, các cánh quân Nhật phải dừng lại và rút về các khu vực ven biển phía nam của bán đảo. Dù vậy các lực lượng trên bộ của nhà Minh và Triều Tiên đã không thể đánh bật người Nhật khỏi các vị trí này và cả hai bên một lần nữa rơi vào thế bế tắc quân sự kéo dài mười tháng.
Cái chết của Toyotomi Hideyoshi vào năm 1598, cùng những chiến thắng hạn chế trên đất liền, các lực lượng Nhật Bản đã được lệnh rút lui bởi Hội đồng Ngũ Nguyên Lão. Các cuộc đàm phán hòa bình cuối cùng giữa các bên sau đó và tiếp tục trong nhiều năm, cuối cùng dẫn đến việc bình thường hóa quan hệ.
Hai lần viễn chinh này được gọi là Những cuộc xâm lược Triều Tiên của Hideyoshi, Chiến tranh Bảy năm (theo độ dài của cuộc chiến), ở Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên gọi là Nhâm Thìn Oa loạn ("Oa" là tên gọi mà người Triều Tiên hồi đó gọi Nhật Bản).[8] Người Nhật gọi cuộc chiến là "Chiến dịch Triều Tiên" còn người Trung Quốc gọi là "Đông chinh" hoặc "Kháng Nhật viện Triều" (chi viện Triều Tiên kháng chiến chống Nhật Bản).[9]