Chữ tượng hình Ai Cập
From Wikipedia, the free encyclopedia
Chữ tượng hình Ai Cập (tiếng Anh: Egyptian hieroglyphs; từ tiếng Hy Lạp cổ đại ἱερογλύφος có nghĩa là "các chữ cái linh thiêng được chạm khắc", cũng viết là τὰ ἱερογλυφικά γράμματα) là hệ chữ viết chính thức được người Ai Cập cổ đại sử dụng, kết hợp các yếu tố logic, âm tiết và chữ cái, tổng số khoảng 1.000 ký tự riêng biệt. Chữ tượng hình bằng chữ thảo (Cursive hieroglyphs) được sử dụng cho văn bản tôn giáo viết trên giấy cói và gỗ. Chữ thầy tu (hieratic) và chữ bình dân (demotic) có nguồn gốc từ chữ viết tượng hình, cũng như chữ Proto-Sinai sau này phát triển thành bảng chữ cái Phoenicia.[5] Thông qua những hệ thống con chính của bảng chữ cái Phoenicia (hệ thống chữ viết Hy Lạp và Aramaic), chữ viết tượng hình Ai Cập là tổ tiên của phần lớn các chữ viết được sử dụng hiện đại, nổi bật nhất là chữ Latinh và chữ Kirin (thông qua tiếng Hy Lạp), chữ viết Ả Rập và có thể cả chữ Brahmic (thông qua tiếng Aramaic).
Bài viết này là một bản dịch thô từ ngôn ngữ khác. (tháng 12/2023) |
Chữ tượng hình Ai Cập | |
---|---|
Thể loại | có thể được sử dụng làm một abjad |
Thời kỳ | kh. 3200 TCN[1][2][3] – 400 CN[4] |
Hướng viết | Phải sang trái, trái sang phải |
Các ngôn ngữ | Tiếng Ai Cập |
Hệ chữ viết liên quan | |
Nguồn gốc | (Tiền chữ viết)
|
Hậu duệ | Chữ Proto-Sinai Chữ thầy tu |
ISO 15924 | |
ISO 15924 | Egyp, 050 |
Unicode | |
Dải Unicode |
|
Bài viết này chứa các biểu tượng ngữ âm IPA trong Unicode. Nếu không thích hợp hỗ trợ dựng hình, bạn có thể sẽ nhìn thấy dấu chấm hỏi, hộp, hoặc ký hiệu khác thay vì kí tự Unicode. Để có hướng dẫn thêm về các ký hiệu IPA, hãy xem Trợ giúp:IPA. |
Việc sử dụng chữ viết tượng hình bắt nguồn từ các hệ thống ký hiệu Proto-writing trong Thời đại đồ đồng, khoảng thế kỷ 32 trước Công nguyên (Naqada III), [2] với câu đầu tiên có thể giải mã được viết bằng tiếng Ai Cập có niên đại vào Vương triều thứ hai (thế kỷ 28 trước Công nguyên). Chữ tượng hình Ai Cập đã phát triển thành một hệ thống chữ viết thuần thục được sử dụng cho các bản khắc tượng đài bằng ngôn ngữ cổ điển thời kỳ Trung Vương quốc; trong thời kỳ này, hệ thống đã sử dụng khoảng 900 kí hiệu riêng biệt. Việc sử dụng hệ thống chữ viết này tiếp tục qua thời kì Tân Vương quốc Ai Cập và Thời kỳ Hậu nguyên của Ai Cập cổ đại, và tiếp tục đến Vương triều thứ Hai Mươi Bảy của Ai Cập và thời kì Vương quốc Ptolemy. Những bằng chứng cuối của việc sử dụng chữ tượng hình được tìm thấy nhiều vào thời kỳ Ai Cập thuộc La Mã, kéo dài đến thế kỷ thứ 4 sau Công Nguyên.
Với sự đóng cửa cuối cùng của các ngôi đền Pagan giáo vào thế kỷ thứ 5, kiến thức về chữ viết tượng hình đã thất truyền. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng chữ viết vẫn chưa được giải mã trong suốt thời Trung Cổ và đầu thời kỳ cận đại. Việc giải mã chữ viết tượng hình cuối cùng đã được hoàn thành vào những năm 1820 bởi Jean-François Champollion, với sự trợ giúp của Phiến đá Rosetta.[6]