Cách mạng khoa học
From Wikipedia, the free encyclopedia
Trong lịch sử khoa học, cuộc cách mạng khoa học là một giai đoạn phát sinh nhiều ý tưởng mới về vật lý, thiên văn học, sinh học, giải phẫu học con người, hóa học, và các ngành khoa học khác dẫn tới sự loại bỏ các học thuyết được đưa ra từ thời Hy Lạp cổ đại đến thời Trung cổ, và đặt nền móng cho khoa học hiện đại.[1] Theo các học giả, cách mạng khoa học bắt đầu từ việc xuất bản hai công trình làm thay đổi diện mạo của khoa học vào năm 1543 và tiếp tục ảnh hưởng cho đến cuối thế kỷ 17 bao gồm công trình của Nicolaus Copernicus là De revolutionibus orbium coelestium (On the Revolutions of the Heavenly Spheres) và công trình của Andreas Vesalius De humani corporis fabrica (On the Fabric of the Human body).
Nhà triết học và sử gia Alexandre Koyré đã đặt ra thuật ngữ scientific revolution (cách mạng khoa học) vào năm 1939 để mô tả giai đoạn này.[2]
Cách mạng khoa học làm biến đổi về chất lực lượng sản xuất, biến khoa học kĩ thuật thành nhân tố chủ đạo của sự phát triển nền sản xuất xã hội, thành lực lượng sản xuất trực tiếp, dẫn đến sự biến đổi cách mạng trong cơ sở vật chất kĩ thuật của xã hội, trong tính chất và phân công lao động xã hội. Cách mạng khoa học tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, đòi hỏi người lao động phải ngày càng nâng cao trình độ học thức chuyên môn, trình độ văn hoá, tổ chức, làm thay đổi thói quen, tập quán; thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế, văn hoá xã hội.