Didier Drogba
Cầu thủ bóng đá người Bờ Biển Ngà / From Wikipedia, the free encyclopedia
Didier Yves Drogba Tébily (phát âm tiếng Pháp: [didje dʁɔɡba]; sinh ngày 11 tháng 3 năm 1978) là cựu cầu thủ bóng đá người Bờ Biển Ngà chơi ở vị trí tiền đạo.[5] Anh là vua phá lưới mọi thời đại và là cựu đội trưởng của đội tuyển bóng đá quốc gia Bờ Biển Ngà. Anh được biết đến nhiều nhất trong sự nghiệp của mình ở Chelsea, nơi mà anh đã ghi nhiều bàn thắng hơn bất kỳ cầu thủ nước ngoài nào khác và hiện là cầu thủ ghi bàn thắng nhiều thứ tư mọi thời đại của câu lạc bộ. Drogba được mệnh danh là cầu thủ vĩ đại nhất của Chelsea trong một cuộc thăm dò với 20.000 người hâm mộ do Tạp chí Chelsea F.C. thực hiện vào năm 2012, và anh cũng có tên trong đội hình Chelsea của thập kỷ 2010–2020.[6][7] Anh được coi là một trong những cầu thủ châu Phi vĩ đại nhất mọi thời đại và được chú ý bởi thể lực, tốc độ, khả năng không chiến, những cú đánh uy lực, chính xác và khả năng giữ bóng. Drogba được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất châu Phi hai lần, giành giải thưởng này vào các năm 2006 và 2009. Anh cũng là cầu thủ có nhiều lần về nhì nhất (4), về đích ở vị trí thứ ba nhiều nhất (3) và nhiều lần lọt vào top ba nhất (9).
Drogba năm 2019 | ||||||||||||||||||||
Thông tin cá nhân | ||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Didier Yves Drogba Tébily[1] | |||||||||||||||||||
Ngày sinh | 11 tháng 3, 1978 (46 tuổi)[2] | |||||||||||||||||||
Nơi sinh | Abidjan, Bờ Biển Ngà | |||||||||||||||||||
Chiều cao | 1,88 m (6 ft 2 in)[3] | |||||||||||||||||||
Vị trí | Tiền đạo cắm | |||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | ||||||||||||||||||||
Năm | Đội | |||||||||||||||||||
1988–1989 | Tourcoing[4] | |||||||||||||||||||
1989–1991 | Abbeville | |||||||||||||||||||
1991–1993 | Vannes | |||||||||||||||||||
1993–1997 | Levallois | |||||||||||||||||||
1997–1998 | Le Mans | |||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | ||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | |||||||||||||||||
1998–2002 | Le Mans | 64 | (12) | |||||||||||||||||
2002–2003 | Guingamp | 45 | (20) | |||||||||||||||||
2003–2004 | Marseille | 35 | (19) | |||||||||||||||||
2004–2012 | Chelsea | 226 | (100) | |||||||||||||||||
2012–2013 | Thượng Hải Thân Hoa | 11 | (8) | |||||||||||||||||
2013–2014 | Galatasaray | 37 | (15) | |||||||||||||||||
2014–2015 | Chelsea | 28 | (4) | |||||||||||||||||
2015–2016 | Montreal Impact | 33 | (21) | |||||||||||||||||
2017–2018 | Phoenix Rising | 22 | (14) | |||||||||||||||||
Tổng cộng | 497 | (210) | ||||||||||||||||||
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | ||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | |||||||||||||||||
2002–2014 | Bờ Biển Ngà | 105 | (65) | |||||||||||||||||
Thành tích huy chương
| ||||||||||||||||||||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia |
Sau khi chơi ở các đội trẻ, Drogba đã có trận ra mắt chuyên nghiệp ở tuổi 18 cho câu lạc bộ Le Mans ở Ligue 2 , và ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên ở tuổi 21. Sau khi kết thúc mùa giải 2002–03 với 17 bàn thắng trong 34 lần ra sân cho Guingamp của Ligue 1, anh chuyển đến đến Olympique de Marseille, nơi anh kết thúc với tư cách là cầu thủ ghi bàn nhiều thứ ba trong mùa giải 2003–04 với 19 bàn thắng và giúp câu lạc bộ lọt vào chung kết UEFA Cup 2004.
Vào tháng 7 năm 2004, Drogba chuyển đến câu lạc bộ Chelsea ở giải bóng đá Ngoại hạng Anh với mức phí kỷ lục 24 triệu bảng Anh, khiến anh trở thành cầu thủ người Bờ Biển Ngà đắt giá nhất trong lịch sử. Trong mùa giải đầu tiên của mình, anh đã giúp câu lạc bộ này giành được chức vô địch đầu tiên sau 50 năm, và một năm sau đó, anh đã giành được một chức vô địch Premier League khác. Màn trình diễn của anh đã giúp anh có tên trong FIFA World XI năm 2007. Vào tháng 3 năm 2012, anh trở thành cầu thủ châu Phi đầu tiên ghi được 100 bàn thắng ở Ngoại hạng Anh.[8] Chỉ hai tháng sau, anh ghi bàn trong chiến thắng chung kết Cúp FA 2012 của Chelsea trước Liverpool để trở thành cầu thủ đầu tiên (và tính đến năm 2017, là cầu thủ duy nhất) ghi bàn trong bốn trận chung kết Cúp FA.[9] Anh cũng đã chơi trong trận Chung kết UEFA Champions League 2012, trong đó anh ghi bàn gỡ hòa ở phút 88 và quả penalty quyết định trong loạt sút luân lưu quyết định với Bayern Munich.[10] Sau 6 tháng thi đấu cho Shanghai Shenhua ở Trung Quốc, và một mùa rưỡi với câu lạc bộ Thổ Nhĩ Kỳ Galatasaray, nơi anh ghi bàn thắng quyết định trong trận chung kết Siêu cúp Thổ Nhĩ Kỳ 2013, Drogba trở lại Chelsea vào tháng 7 năm 2014.[11][12] Với thành tích ghi 10 bàn trong 10 trận chung kết giành 10 danh hiệu ở cấp câu lạc bộ, Drogba được coi là "cầu thủ của những trận cầu lớn".[13][14] Anh tham gia câu lạc bộ Montreal Impact vào năm 2015 với tư cách là cầu thủ được chỉ định và đã chơi 41 trận trong hai mùa giải và ghi được 23 bàn thắng. Drogba trở thành cầu thủ kiêm chủ sở hữu của Phoenix Rising ở giải bóng đá nhà nghề Hoa Kỳ vào năm 2017 và nghỉ hưu một năm sau đó ở tuổi 40. Vào ngày 21 tháng 4 năm 2022, anh được giới thiệu vào Đại sảnh Danh vọng Premier League.[15][16]
Là tuyển thủ Bờ Biển Ngà từ năm 2002 đến 2014, Drogba là đội trưởng đội tuyển quốc gia từ năm 2006 cho đến khi anh nghỉ hưu từ đội Bờ Biển Ngà và là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất mọi thời đại của quốc gia với 65 bàn thắng sau 105 lần ra sân.[1][17] Anh đã dẫn dắt Bờ Biển Ngà tham gia giải vô địch bóng đá thế giới 2006. Đó là lần đầu tiên Bờ Biển Ngà xuất hiện trong giải đấu và anh cũng là người ghi bàn thắng đầu tiên. Sau đó, anh là đội trưởng của Bờ Biển Ngà tại các giải vô địch bóng đá thế giới 2010 và 2014.[18] Anh là thành viên của đội Bờ Biển Ngà và giúp đất nước quê hương của anh lọt vào trận chung kết Cúp bóng đá châu Phi vào năm 2006 và 2012 nhưng đều bị đánh bại trên chấm phạt đền trong cả hai lần. Vào ngày 8 tháng 8 năm 2014, anh tuyên bố từ giã sự nghiệp thi đấu quốc tế[19] và vào năm 2018, anh chính thức từ giã sự nghiệp bóng đá chuyên nghiệp ở tuổi 40.[5]
Hoạt động tích cực trong các vấn đề xã hội ở châu Phi, Drogba đóng một vai trò quan trọng trong tiến trình hòa bình ở quê nhà.[20] Năm 2007, anh được bổ nhiệm làm Đại sứ thiện chí cho Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc, và vào tháng 12 năm 2018, anh trở thành Phó Chủ tịch của Tổ chức quốc tế Hòa bình và Thể thao.[21]