Eris (hành tinh lùn)
hành tinh lùn trong Hệ Mặt Trời / From Wikipedia, the free encyclopedia
136199 Eris (trước đây được gọi là 2003 UB313, biểu tượng: )[16] là hành tinh lùn lớn nhất trong Thái Dương hệ và là thiên thể thứ 11 quay quanh Mặt Trời (tính theo khoảng cách, không kể vành đai Kuiper và các vệ tinh tự nhiên). Đầu tiên, Eris được nhận diện là thiên thể ngoài Hải Vương tinh (TNO) mà các nhà thiên văn California tại đài thiên văn trên đỉnh Palomar miêu tả là "lớn hơn rõ rệt" so với Sao Diêm Vương[17] Thiên thể này được các nhà thiên văn học phát hiện, NASA và một số phương tiện thông tin đại chúng coi là hành tinh thứ mười, nhưng vẫn chưa rõ ràng là nó sẽ được chấp nhận rộng rãi như là một hành tinh mới hay không. Nó có ít nhất một vệ tinh, điều này sẽ cho phép các nhà điều tra đo đạc khối lượng của hệ thống này.
Hình ảnh hành tinh lùn Eris | |||||||||
Khám phá | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Khám phá bởi | |||||||||
Ngày phát hiện | 5 tháng 1 năm 2005[2][lower-alpha 1] | ||||||||
Tên định danh | |||||||||
Tên định danh | 136199 Eris | ||||||||
Phiên âm | /ˈɪər[invalid input: 'ɨ']s/ hoặc /ˈɛr[invalid input: 'ɨ']s/[lower-alpha 2] | ||||||||
Đặt tên theo | Eris | ||||||||
Tên thay thế | 2003 UB313[5] | ||||||||
Tính từ | Eridian | ||||||||
Đặc trưng quỹ đạo[5] | |||||||||
Kỷ nguyên 9 tháng 12 năm 2014 (JD 24570005) | |||||||||
Điểm viễn nhật |
| ||||||||
Điểm cận nhật |
| ||||||||
| |||||||||
Độ lệch tâm | 0,44068 | ||||||||
| |||||||||
Tốc độ vũ trụ cấp 1 trung bình | 3,4338 km/s | ||||||||
20416° | |||||||||
Độ nghiêng quỹ đạo | 440445° | ||||||||
359531° | |||||||||
150977° | |||||||||
Vệ tinh đã biết | Dysnomia | ||||||||
Đặc trưng vật lý | |||||||||
Bán kính trung bình | 1163±6 km[8][9] | ||||||||
(170±002)×107 km2[lower-alpha 3] | |||||||||
Thể tích | (659±010)×109 km3[lower-alpha 3] | ||||||||
Khối lượng | |||||||||
Mật độ trung bình | 252±007 g/cm3[lower-alpha 4] | ||||||||
082±002 m/s2 0083±0002 g[lower-alpha 5] | |||||||||
4.364 ±0.01 km/s[lower-alpha 5] | |||||||||
259±05 hr[11] | |||||||||
Suất phản chiếu | 096+009 −004[8] | ||||||||
| |||||||||
Kiểu phổ | B−V=0.78, V−R=0.45[12] | ||||||||
18.7[13] | |||||||||
−117+006 −011[lower-alpha 6] | |||||||||
40 milli-arcsec[15] |
Tên gọi ban đầu của thiên thể là 2003 UB313, nhưng các nhà phát hiện ra nó đã đề nghị tên có thể cho nó tới Hiệp hội thiên văn quốc tế (IAU), là cơ quan xem xét các quy ước đặt tên thiên văn. Tuyên bố cho rằng 2003 UB313 được đặt tên là 'Xena' hay 'Lila' là không chính xác; cả hai tên gọi này đã được các nhà phát hiện sử dụng một cách thân mật nhưng chẳng có tên nào trong chúng đã được đệ trình tới IAU. Quy tắc để đặt tên cho 2003 UB313 hiện nay bị trì hoãn phụ thuộc vào các quyết định có nên phổ biến định nghĩa thuật ngữ 'hành tinh' một cách hình thức hay không và địa vị của thiên thể này theo định nghĩa như thế nào.
Tên gọi Eris được đặt theo tên của vị thần Eris trong thần thoại Hy Lạp, người đã gây ra cuộc chiến thành Troia.
Các quan sát gần đây (2011) bởi đài quan sát La Silla ở ESO nhờ sự che khuất của Eris khi nó che qua một ngôi sao cho ước tính đường kính của nó bằng 2326 km với sai số 12 km.[cần dẫn nguồn] Các quan sát đầu tiên cho thấy mêtan đóng băng có trên bề mặt thiên thể này. Điều này cho thấy Eris giống với Diêm Vương Tinh hơn là các hành tinh nhỏ khác đã phát hiện ra trước đây ở rìa ngoài của hệ Mặt Trời.
Các quan sát tiếp theo vào tháng 10 năm 2005 phát hiện ra là thiên thể này có vệ tinh, S/2005 (2003 UB313) 1 (có tên thân mật là "Gabrielle"), sau này được đặt tên là Dysnomia - con gái của nữ thần Eris. Các nhà khoa học có kế hoạch sử dụng thông tin này để xác định khối lượng của Eris.