Giang Trạch Dân
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc (1989-2002) / From Wikipedia, the free encyclopedia
Giang Trạch Dân (chữ Anh: Jiang Zemin, chữ Trung phồn thể: 江澤民, chữ Trung giản thể: 江泽民, bính âm: Jiāng Zémín; 17 tháng 8 năm 1926 – 30 tháng 11 năm 2022), quê quán sinh trưởng tổ tiên của ông ở trấn Giang Loan, huyện Vụ Nguyên, tỉnh Giang Tây,[1] nhưng ông ra đời ở thành phố cấp quận Dương Châu, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc đại lục. Tháng 4 năm 1946, Giang Trạch Dân gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng 6 năm 1989 ông trở thành hạt nhân lãnh đạo (leadership core) của tập thể lãnh đạo Trung ương đời thứ 3. Tháng 6 năm 1989 đến tháng 11 năm 2002 Giang đảm nhiệm Tổng thư kí Uỷ viên hội Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc; tháng 11 năm 1989 đến tháng 9 năm 2004 đảm nhiệm Chủ tịch Quân uỷ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc [2]. Tháng 3 năm 1990 đến tháng 3 năm 2005 đảm nhiệm Chủ tịch Quân uỷ Trung ương nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa; tháng 3 năm 1993 đến tháng 3 năm 2003 đảm nhiệm Chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa.
Bài viết hoặc đoạn này cần người am hiểu về chủ đề này trợ giúp biên tập mở rộng hoặc cải thiện. (tháng 3/2022) |
Giang Trạch Dân Jiang Zemin 江泽民 | |
---|---|
Giang Trạch Dân năm 2002 | |
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 24 tháng 6 năm 1989 – 25 tháng 11 năm 2002 13 năm, 154 ngày |
Tiền nhiệm | Triệu Tử Dương |
Kế nhiệm | Hồ Cẩm Đào |
Nhiệm kỳ | 17 tháng 3 năm 1993 – 15 tháng 3 năm 2003 9 năm, 363 ngày |
Tiền nhiệm | Dương Thượng Côn |
Kế nhiệm | Hồ Cẩm Đào |
Phó Chủ tịch | Vinh Nghị Nhân Hồ Cẩm Đào |
Nhiệm kỳ | 19 tháng 11 năm 1989 – 19 tháng 3 năm 2003 13 năm, 120 ngày |
Tiền nhiệm | Đặng Tiểu Bình |
Kế nhiệm | Hồ Cẩm Đào |
Phó Chủ tịch | Tào Cương Xuyên Quách Bá Hùng Hồ Cẩm Đào Trì Hạo Điền Trương Vạn Niên Lưu Hoa Thanh Trương Chấn Dương Thượng Côn |
Nhiệm kỳ | 19 tháng 3 năm 1990 – 18 tháng 3 năm 2003 12 năm, 364 ngày |
Tiền nhiệm | Đặng Tiểu Bình |
Kế nhiệm | Hồ Cẩm Đào |
Phó Chủ tịch | Tào Cương Xuyên Quách Bá Hùng Hồ Cẩm Đào Trì Hạo Điền Trương Vạn Niên Lưu Hoa Thanh Trương Chấn Dương Thượng Côn |
Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc | |
Nhiệm kỳ | Tháng 11 năm 1987 – Tháng 6 năm 1989 |
Tiền nhiệm | Nhuế Hạnh Văn |
Kế nhiệm | Chu Dung Cơ |
Thị trưởng | Chu Dung Cơ |
Nhiệm kỳ | 1985 – 1987 |
Tiền nhiệm | Uông Đạo Hàm |
Kế nhiệm | Chu Dung Cơ |
Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Điện tử Trung Quốc | |
Nhiệm kỳ | 1982 – 1984 |
Tiền nhiệm | Trương Đĩnh |
Kế nhiệm | Lý Thiết Ánh |
Thông tin chung | |
Sinh | (1926-08-17)17 tháng 8 năm 1926 Dương Châu, tỉnh Giang Tô, Trung Hoa Dân Quốc |
Mất | 30 tháng 11 năm 2022(2022-11-30) (96 tuổi) Thượng Hải, Trung Quốc |
Dân tộc | Hán |
Tôn giáo | không |
Đảng chính trị | Đảng Cộng sản Trung Quốc |
Vợ | Vương Dã Bình (cưới 1949) |
Con cái | Giang Miên Hằng (con trưởng) Giang Miên Khang (con thứ) |
Trường lớp | Trung học Dương Châu Đại học Trung ương Quốc lập Đại học Giao thông |
Giang Trạch Dân lên nắm quyền lãnh đạo sau sự kiện những cuộc phản kháng trên Quảng trường Thiên An Môn năm 1989, thay thế Triệu Tử Dương, người bị thanh trừng vì quá khoan dung với những người phản kháng, với chức vụ Tổng bí thư. Với ảnh hưởng ngày càng suy giảm của Đặng Tiểu Bình vì tuổi tác, Giang Trạch Dân đã thực sự trở thành "lãnh đạo tối cao" trong thập niên 1990. Dưới sự lãnh đạo của ông, Trung Quốc đã trải qua một giai đoạn phát triển bền vững với các cải cách, thu hồi một cách hoà bình Hồng Kông từ Anh Quốc và Ma Cao từ Bồ Đào Nha, và cải thiện các quan hệ với thế giới bên ngoài trong khi Đảng Cộng sản vẫn duy trì được sự kiểm soát chặt chẽ với chính phủ. Được biết đến là một trong những khuôn mặt chính trị lôi cuốn của Trung Quốc, Giang Trạch Dân bị chỉ trích vì quá cẩn thận với hình ảnh đời sống cá nhân, và quá nhún nhường trước Nga và Hoa Kỳ. Những lời chỉ trích cũng tập trung vào sự bất lực của Giang Trạch Dân trong việc duy trì kiểm soát trên nhiều vấn đề và sự bất công xã hội trong nhiệm kỳ của ông. Các thành viên Đảng Cộng sản Trung Quốc theo đường lối cứng rắn buộc tội Giang Trạch Dân là một lãnh đạo quá thiên cải cách, người đã hợp pháp hoá hoàn toàn cho chủ nghĩa tư bản. Đóng góp của ông vào học thuyết Marx, một danh sách các lý luận mang tính chỉ đạo theo đó Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo nhà nước, được gọi là lý thuyết Thuyết Ba Đại Diện, đã được đưa vào điều lệ đảng và hiến pháp nhà nước.