Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân
hiệp ước quốc tế / From Wikipedia, the free encyclopedia
Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (tiếng Anh: Nuclear Non-Proliferation Treaty – NPT hoặc NNPT) là một hiệp ước quốc tế được thiết lập nhằm mục đích hạn chế việc sở hữu các loại vũ khí hạt nhân. Ngày 1 tháng 6 năm 1968 được chọn là ngày khởi đầu tiến trình tham gia ký kết hiệp ước này.
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
Tên đầy đủ:
| |
---|---|
Ngày kí | 1 tháng 7 năm 1968 |
Nơi kí | Moscow, Nga; London, Anh; Washington DC, Hoa Kỳ |
Ngày đưa vào hiệu lực | 5 tháng 3 năm 1970 |
Điều kiện | Được chấp thuận bởi Liên Xô, Vương Quốc Anh, Hoa Kỳ và 40 quốc gia đã được ký kết khác. |
Bên tham gia | 190 (complete list)[1] Quốc gia không ký kết: Ấn Độ, Israel, Bắc Triều Tiên, Pakistan và Nam Sudan |
Người gửi lưu giữ | Hoa Kỳ, Anh và Liên Xô |
Ngôn ngữ | Tiếng Anh, Tiếng Nga, Tiếng Pháp, Tiếng Tây Ban Nha và tiếng Trung |
Hiệp ước không phổ biến Vũ Khí Hạt Nhân tại Wikisource |
Đại đa số các quốc gia có chủ quyền (187 nước) đều tham gia hiệp ước. Tuy nhiên, hai trong số bảy cường quốc hạt nhân và một vài quốc gia có thể đang có vũ khí hạt nhân không chịu phê chuẩn hiệp ước. Ireland là quốc gia soạn thảo hiệp ước, còn Phần Lan là quốc gia đầu tiên ký kết hiệp ước. Ngày 11 tháng 5 năm 1995, tại thành phố New York, hơn 170 quốc gia quyết định mở rộng hiệp ước không giới hạn và không điều kiện.
Hiệp ước thường được tóm tắt thành ba nguyên tắc trụ cột: Không phổ biến, Giải giới và Quyền sử dụng kỹ thuật hạt nhân cho mục đích hoà bình.