Hãn quốc Sát Hợp Đài
hãn quốc Mông Cổ gồm các vùng đất do Sát Hợp Đài hãn cai trị / From Wikipedia, the free encyclopedia
Hãn quốc Sát Hợp Đài hay Sát Hợp Đài hãn quốc (tiếng Mông Cổ: Tsagadai Khan Uls/Цагадайн улс) là một hãn quốc Turk-Mông Cổ[2] bao gồm các phần lãnh thổ do Sát Hợp Đài cùng những hậu duệ quản lý, ông là người con trai thứ hai của Thành Cát Tư Hãn. Ban đầu Hãn quốc được coi là một phần của Đế quốc Mông Cổ, nhưng về sau hoàn toàn độc lập.
Hãn quốc Sát Hợp Đài
|
|||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||||||
1225–1687 | |||||||||||||
Hiệu kỳ | |||||||||||||
Sát Hợp Đài hãn quốc, khoảng 1300. | |||||||||||||
Tổng quan | |||||||||||||
Thủ đô | Almalik, Qarshi | ||||||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | Mông Cổ trung đại, Turk | ||||||||||||
Tôn giáo chính | Đằng Cách Lý giáo, Phật giáo, Thiên Chúa giáo và sau đó là Hồi giáo | ||||||||||||
Chính trị | |||||||||||||
Chính phủ | Bán-quân chủ tuyển cử, sau đó là quân chủ thế tập | ||||||||||||
Hãn | |||||||||||||
• 1225–1242 | Sát Hợp Đài | ||||||||||||
• 1388–1402 | Sultan Mahmud | ||||||||||||
• 1681–1687 | Muhammad Imin | ||||||||||||
Lập pháp | Kurultai | ||||||||||||
Lịch sử | |||||||||||||
Thời kỳ | Trung Cổ | ||||||||||||
1225 | |||||||||||||
• Cái chết của Sát Hợp Đài | 1242 | ||||||||||||
• Thành lập Hãn quốc Moghul | 1347 | ||||||||||||
• Transoxiana bị Tamerlane chiếm | 1370 | ||||||||||||
• Các lãnh thổ còn lại rơi vào tay Apaq Khoja và Ak Tagh với sự giúp đỡ của người Dzungar | 1687 | ||||||||||||
Địa lý | |||||||||||||
Diện tích | |||||||||||||
• ước tính 1310. | 1.000.000 km2 (386.102 mi2) | ||||||||||||
• ước tính 1350.[1] | 3.500.000 km2 (1.351.358 mi2) | ||||||||||||
Kinh tế | |||||||||||||
Đơn vị tiền tệ | Tiền xu (dirham và Kebek) | ||||||||||||
| |||||||||||||
Vào thời đỉnh cao cuối thế kỷ 13, hãn quốc có lãnh thổ trải dài từ Amu Darya ở phía Nam biển Aral đến dãy núi Altai ở biên giới Mông Cổ-Trung Quốc ngày nay.[3]
Hãn quốc tồn tại từ thập niên 1220 cho đến cuối thế kỷ 17, mặc dù phần phía tây của hãn quốc đã rơi vào tay Tamerlane từ thập niên 1360. Phần phía đông vẫn nằm dưới quyền cai trị của các hãn của hãn quốc Sát Hợp Đài, họ đôi khi liên minh nhưng cũng có khi chiến đấu với triều Timur. Cuối cùng, vào thế kỷ 17, phần lãnh thổ còn lại của hãn quốc Sát Hợp Đài rơi vào tay chế độ thần quyền của Apaq Khoja (A Phách Khắc Hòa Trác) và các hậu duệ của ông ta, các Khoja (hòa trác), những người liên tục cai trị Đông Turkestan dưới thời hãn quốc Dzungar và Mãn Châu.