Hải quân Liên Xô
From Wikipedia, the free encyclopedia
Hải quân Liên Xô (tiếng Nga: Военно-морской флот СССР (ВМФ), chuyển tự Voyenno-morskoy flot SSSR (VMF), nguyên văn 'Hạm đội Hàng hải quân sự Liên Xô') là nhánh hải quân của Lực lượng vũ trang Liên Xô. Thường được gọi là Hạm đội Đỏ, Hải quân Liên Xô là lực lượng có số lượng tàu chiến và máy bay mạnh thứ 2 trên thế giới trong giai đoạn 1950-1990 (chỉ sau Hoa Kỳ). Xét riêng về một số lĩnh vực thì hải quân Liên Xô có vị trí dẫn đầu thế giới về tàu ngầm, ngư lôi và tên lửa chống hạm.
Hải quân Liên Xô | |
---|---|
Военно-морской флот СССР Voyenno-morskoy flot SSSR | |
Kỳ hiệu của Hải quân Liên Xô | |
Thành lập | 1918 (1918) |
Giải tán | 14 tháng 2 năm 1992 (1992-02-14) |
Quốc gia | Liên Xô |
Phân loại | Hải quân |
Quy mô | 467.000 quân nhân (1984)[1] 1.053 tàu các loại (1990) 1.172 máy bay (1990) 5 tàu sân bay 2 tàu sân bay trực thăng 3 tàu chiến-tuần dương 30 tàu tuần dương 45 tàu khu trục 113 khinh hạm 124 tàu corvette 63 tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo 72 tàu ngầm mang tên lửa hành trình 64 tàu ngầm tấn công hạt nhân 63 tàu ngầm tấn công điện-diesel 9 tàu ngầm phụ trợ 35 tàu đổ bộ 425 tàu tuần tra |
Bộ phận của | Lực lượng Vũ trang Liên Xô |
Tên khác | Hạm đội Đỏ |
Tham chiến | Cách mạng Nga Nội chiến Nga Chiến tranh Nga-Ba Lan Chiến tranh biên giới Xô-Nhật Liên Xô chiếm đóng Ba Lan Chiến tranh Mùa đông (Phần Lan) Chiến tranh Tiếp diễn Thế chiến II (Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại) Liên Xô tiến vào Mãn Châu Chiến tranh Việt Nam Tàu ngầm Liên Xô vòng quanh thế giới năm 1966 Chiến tranh lạnh |
Các tư lệnh | |
Chỉ huy hiện tại | Đô đốc Hạm đội Vladimir N. Chernavin (Tổng tư lệnh hải quân cuối cùng) |
Chỉ huy nổi tiếng | Đô đốc Hạm đội Sergey Gorshkov Đô đốc Hạm đội Nikolay Kuznetsov Phó Đô đốc Aleksandr Nemits Phó Đô đốc Yevgeny Berens Đô đốc Hạm đội Vasili Altfater Đô đốc Ivan Yumashev |
Huy hiệu | |
Hải kỳ | |
Cờ hiệu Cận vệ Cờ đỏ Hải quân |
Hải quân Liên Xô là một phần trong chiến lược tác chiến của Liên Xô trong trường hợp xảy ra xung đột với Hoa Kỳ, hoặc một cuộc xung đột khác liên quan giữa Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và Khối Warsaw (WTO). Lực lượng này có nhiệm vụ phòng thủ lãnh hải Liên Xô, ngăn chặn các tuyến hàng hải từ Mỹ tới các nước đồng minh NATO, đồng thời tiêu diệt hải quân Mỹ và NATO tại khu vực tác chiến dự kiến là các vùng biển ở Bắc bán cầu. Ảnh hưởng của Hải quân Liên Xô đã đóng một vai trò lớn trong Chiến tranh Lạnh (1945-1991), khi phần lớn các cuộc xung đột tập trung vào lực lượng hải quân.
Hải quân Liên Xô được chia thành bốn hạm đội lớn gồm Hạm đội Phương Bắc, Hạm đội Thái Bình Dương, Hạm đội Biển Đen và Hạm đội Baltic, ngoài ra còn có Căn cứ Hải quân Leningrad được chỉ huy riêng biệt. Hạm đội Caspi là một lực lượng nhỏ hoạt động trong vùng biển hồ Biển Caspian.
Sau khi Liên Xô tan rã năm 1991, Nga đã kế thừa phần lớn nhất của Hải quân Liên Xô và cải tổ nó thành Hải quân Nga, với những phần nhỏ hơn trở thành nền tảng cho hải quân của các quốc gia hậu Xô Viết mới độc lập.