Lực lượng Cảnh sát Hồng Kông
From Wikipedia, the free encyclopedia
Lực lượng Cảnh sát Hồng Kông (HKPF; tiếng Trung: 香港警務處, Hương Cảng cảnh vụ xứ) là cơ quan điều tra, thực thi pháp luật, và là hàng ngũ kỷ luật lớn nhất thuộc Cục Bảo an của Hong Kong. Thành lập vào ngày 1 tháng 5 năm 1844 bởi chính phủ Thuộc địa Anh ở Hong Kong, lực lượng đầu tiên gồm 32 sĩ quan. Năm 1969, Nữ hoàng Elizabeth Đệ nhị phong tặng chữ "Hoàng gia" cho cơ quan này, và tên chính thức trở thành Lực lượng Cảnh sát Hoàng gia Hồng Kông (RHKP), nhưng vào năm 1997 chữ "Hoàng gia" bị gỡ bỏ khi Hong Kong được trao trả về cho Trung Quốc.[3]
Lực lượng Cảnh sát Hồng Kông 香港警務處 香港警务处 | |
Tên tắt | HKPF |
Biểu trưng của Lực lượng Cảnh sát Hong Kong | |
Khẩu hiệu | tiếng Anh: Serving Hong Kong with Honour, Duty and Loyalty (Phục vụ Hồng Kông với danh dự, nghĩa vụ và lòng trung thành) |
Tổng quan về cơ quan | |
---|---|
Thành lập | 1844 |
Ngân sách hàng năm | 17,3 tỷ HKD (2016-2017)[1] |
Tư cách pháp nhân | Chính phủ: cơ quan chính phủ |
Kết cấu quyền hạn thực thi pháp luật | |
Tổng thể |
|
Cơ cấu tổ chức | |
Trụ sở chính | 1 đường Arsenal, Loan Tể, Hong Kong |
Sĩ quan hiện dịch | 30,884[2] |
Nhân viên hành chính | 4,573 |
Điều hành cơ quan | Tiêu Trạch Hàm (Raymond Siu), Sở trưởng Cảnh sát |
Cơ quan chủ quản | Cục Bảo an |
Website | |
police | |
Theo nguyên tắc một quốc gia, hai chế độ, nhà chức trách ở Đại lục không được can thiệp vào công việc hành pháp của Hong Kong. Vì vậy, HKPF hoàn toàn độc lập, không chịu sự kiểm soát của Bộ Công an Trung Quốc.
Hong Kong đã liên tục đứng trong top 10 của BXH Báo cáo Năng lực cạnh tranh Toàn cầu về mức độ tin cậy của lực lượng cảnh sát. Nếu tính luôn Lực lượng Cảnh sát Phụ trợ Hong Kong và số nhân viên hành chính, tổng nhân lực của cảnh sát là hơn 34.000 người, đứng thứ 2 thế giới về tỉ lệ số cảnh sát trên số thường dân năm 2014. Bộ phận Cảnh sát biển có khoảng 3.000 người và 143 tàu thuyền vào năm 2009, là bộ phận cảnh sát biển lớn nhất trong tất cả các lực lượng cảnh sát dân sự.[4]