Mười ba thuộc địa
Nhóm các thuộc địa đầu tiên của Đế Quốc Anh tại Bắc Mỹ / From Wikipedia, the free encyclopedia
Mười ba thuộc địa, còn được gọi là Mười ba thuộc địa Anh[2] hay Mười ba thuộc địa Mỹ,[3] là một nhóm các thuộc địa của Anh trên bờ biển Đại Tây Dương của Bắc Mỹ được thành lập vào thế kỷ 17 và 18. Họ tuyên bố độc lập vào năm 1776 và thành lập Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Mười ba thuộc địa có hệ thống chính trị, hiến pháp và pháp lý rất giống nhau và bị chi phối bởi những người nói tiếng Anh Tin lành. Chúng là một phần tài sản của Anh ở Tân thế giới, bao gồm các thuộc địa ở Canada, Caribe và các thuộc địa Florida.
Mười ba thuộc địa
|
|||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||||
1607–1776 | |||||||||||
Mười ba thuộc địa (thể hiện bằng màu đỏ) năm 1775. | |||||||||||
Tổng quan | |||||||||||
Vị thế | Một phần của Mỹ thuộc Anh (1607–1776) Các thuộc địa của Anh (1607–1707) Thuộc địa của Vương quốc Anh (1707–1776) | ||||||||||
Thủ đô | Thuộc quyền quản lý từ Luân Đôn, Anh | ||||||||||
Ngôn ngữ thông dụng |
| ||||||||||
Tôn giáo chính | Tin lành Công giáo Rôma Do Thái giáo và một số tôn giáo bản địa châu Mỹ | ||||||||||
Chính trị | |||||||||||
Chính phủ | Thuộc địa chế độ quân chủ lập hiến | ||||||||||
Vua | |||||||||||
• 1607–1625 | James IV James I(đầu tiên) | ||||||||||
• 1760–1776 | George III(cuối cùng) | ||||||||||
Lịch sử | |||||||||||
Lịch sử | |||||||||||
1585 | |||||||||||
1607 | |||||||||||
• Tân Anh | 1620 | ||||||||||
• Vua Charles II đặt điều lệ cho Rhode Island và đồn điền Quan phòng | 1663 | ||||||||||
• Vùng đất Rupert's | 1670 | ||||||||||
• Hiệp ước Utrecht (1713) | 1713 | ||||||||||
1732 | |||||||||||
1776 | |||||||||||
1783 | |||||||||||
Dân số | |||||||||||
• 1625[1] | 1.980 | ||||||||||
• 1775[1] | 2.400.000 | ||||||||||
Kinh tế | |||||||||||
Đơn vị tiền tệ | Bảng Anh Tiền địa phương Tiền hàng hóa | ||||||||||
| |||||||||||
Hiện nay là một phần của | Hoa Kỳ |
Từ năm 1625 đến 1775, dân số thuộc địa đã tăng từ khoảng 2.000 đến hơn 2,5 triệu người, thay thế người Mỹ da đỏ. Dân số này bao gồm những người phải chịu một hệ thống nô lệ hợp pháp trong tất cả các thuộc địa trước Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ.[4] Vào thế kỷ 18, chính phủ Anh vận hành các thuộc địa của mình theo chính sách của chủ nghĩa trọng thương, trong đó chính quyền trung ương quản lý tài sản của mình vì lợi ích kinh tế của đất nước mẹ.
Mười ba thuộc địa có mức độ tự quản cao và bầu cử địa phương một cách chủ động, và họ chống lại yêu cầu của Luân Đôn để kiểm soát nhiều hơn. Chiến tranh với Pháp và người da đỏ (1754-63) chống lại Pháp và các đồng minh da đỏ của họ đã dẫn đến căng thẳng gia tăng giữa Anh và Mười ba thuộc địa. Vào những năm 1750, các thuộc địa bắt đầu hợp tác với nhau thay vì giao dịch trực tiếp với Anh. Các hoạt động liên thuộc địa này đã nuôi dưỡng ý thức chia sẻ bản sắc Mỹ và dẫn đến lời kêu gọi bảo vệ "Quyền như người Anh" của thực dân, đặc biệt là nguyên tắc "không đánh thuế nếu không có đại diện". Sự bất bình với chính phủ Anh đã dẫn đến Cách mạng Mỹ, trong đó các thuộc địa hợp tác thành lập Quốc hội Lục địa. Những người đã chiến đấu trong Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ (1775-83) với sự trợ giúp của Pháp và ở một mức độ nhỏ hơn đáng kể là Cộng hòa Hà Lan và Tây Ban Nha.[5]