Người Tatar Krym
From Wikipedia, the free encyclopedia
Người Tatar Krym hay người Krym (tiếng Tatar Krym: къырымтатарлар, chuyển ngữ: Qırımtatarlar, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Kırım Tatarları, tiếng Nga: Крымские Татары, крымцы, tiếng Ukraina: Кримськi Татари, кримцi) là một dân tộc Turk hình thành trên bán đảo Krym trong khoảng thời gian thế kỷ XIII-XVII, với gốc gác chính là các tộc người Turk theo Hồi giáo xâm chiếm đất người Hy Lạp sống vào thế kỷ XX, hợp với cư dân tiền Cuman. Từ năm 2014, người Tatar Krym được công nhận là một dân tộc bản địa của Ukraina.[10] Họ đồng thời cũng được coi là một dân tộc bản địa của Nga.[11]
Bài viết hoặc đoạn này cần người am hiểu về chủ đề này trợ giúp biên tập mở rộng hoặc cải thiện. |
Người Tatar Krym, người Krym Qırımtatarlar, qırımlar | |
---|---|
Hiệu kỳ | |
Khu vực có số dân đáng kể | |
Krym | 246.073[1][2][3] |
Uzbekistan | 10.046[4] |
Thổ Nhĩ Kỳ | 150.000–6.000.000[5] |
Romania | 24.137[6] |
Nga | 2.449[7] |
Bulgaria | 1.803[8] |
Kazakhstan | 1.532[9] |
Hoa Kỳ | 7.000 |
Ukraina (trừ Krym) | 30.000–60.000 |
Ngôn ngữ | |
Tiếng Tatar Krym, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng Nga, tiếng Ukraina | |
Tôn giáo | |
Hồi giáo Sunni |
Người Tatar Krym chiếm phần đông dân cư bán đảo Krym từ lúc hình thành đến giữa thế kỷ XIX, và nói chung vẫn là dân tộc lớn nhất cho tới cuối thế kỷ đó.[12][13] Gần như ngay khi Krym được giải phóng, vào tháng 5 năm 1944, Ủy ban Quốc gia Phòng vệ Liên Xô quyết định trục xuất toàn bộ người Tatar khỏi Krym, gồm cả gia đình người Tatar Krym làm việc cho quân đội Liên Xô, đến Trung Á, chủ yếu tới Uzbekistan. Từ năm 1967, một số được phép về Krym, và vào năm 1989 Xô viết Tối cao Liên Xô tuyên bố rằng sự trục xuất này là vô nhân đạo. Ngày nay, người Tatar Krym chiếm chừng 12% dân số Krym. Vẫn còn những cộng đồng người Krym ở Thổ Nhĩ Kỳ và Uzbekistan.