Park Chung-hee
Tổng thống thứ 3 của Hàn Quốc (1962-1963),(1963-1979) / From Wikipedia, the free encyclopedia
Park Chung-hee (Tiếng Hàn: 박정희; Hanja: 朴正熙; Hán-Việt: Phác Chính Hy, 14 tháng 11 năm 1917 – 26 tháng 10 năm 1979) là chính trị gia, nhà lãnh đạo quân sự, cựu Tổng thống Hàn Quốc, lãnh đạo của Đảng Dân chủ Cộng hòa. Ông đã gây ra cuộc đảo chính 16 tháng 05 với vai trò là lãnh đạo của Ủy ban Cách mạng (tiền thân của Hội đồng Tối cao phụ trách Tái thiết Quốc gia sau này). Park Chung-hee sau đó trở thành Tổng thống thứ ba của Hàn Quốc và tại nhiệm trong 5 nhiệm kỳ (từ ngày 17 tháng 12 năm 1963 đến ngày 26 tháng 10 năm 1979). Ông là người thành lập nền Đệ Tam Đại Hàn Dân Quốc trong lịch sử Hàn Quốc và là một trong những nhân vật châu Á lừng danh nhất trong thế kỷ XX.[3] Park là Tổng thống tại nhiệm lâu nhất Hàn Quốc trong suốt 17 năm từ năm 1962 đến năm 1979.
Park Chung-hee | |
---|---|
박정희 朴正熙 | |
Chân dung chính thức | |
Tổng thống thứ 3 của Hàn Quốc | |
Nhiệm kỳ 17 tháng 12 năm 1963 – 26 tháng 10 năm 1979 15 năm, 313 ngày Quyền: 23 tháng 3 năm 1962 – 17 tháng 12 năm 1963 1 năm, 269 ngày | |
Thủ tướng | Choi Tu-son Chung Il-kwon Baek Du-jin Kim Jong-pil Choi Kyu-hah |
Tiền nhiệm | Yun Posun |
Kế nhiệm | Choi Kyu-hah (quyền) |
Chủ tịch Hội đồng Tối cao Tái thiết Quốc gia | |
Nhiệm kỳ 3 tháng 7 năm 1961 – 17 tháng 12 năm 1963 2 năm, 167 ngày Phó Chủ tịch từ 16 tháng 5 năm 1961 | |
Tiền nhiệm | Chang Do-yong |
Kế nhiệm | Chức vụ bị bãi bỏ |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | 14 tháng 11 năm 1917 Gumi, Chōsen, Đế quốc Nhật Bản (ngày nay là Gumi, Hàn Quốc) |
Mất | 26 tháng 10 năm 1979 (61 tuổi) Seoul, Hàn Quốc |
Nguyên nhân mất | Bị ám sát |
Nơi an nghỉ | Nghĩa trang Quốc gia Seoul |
Đảng chính trị | Đảng Dân chủ Cộng hoà |
Đảng khác | Đảng Lao động Nam Triều Tiên (1946-1948)[1] |
Phối ngẫu | Kim Ho-nam (cưới 1936–1950) Yuk Young-soo (cưới 1950–1974) |
Con cái | Park Jae-ok Park Geun-hye Park Geun-ryoung Park Ji-man |
Alma mater | Học viện Lục quân Đế quốc Nhật Bản Học viện Quân sự Hoàng gia Mãn Châu Quốc Học viện Quân sự Hàn Quốc |
Tôn giáo | Phật giáo[2] |
Chữ ký | |
Phục vụ trong quân đội | |
Thuộc | Mãn Châu Quốc Hàn Quốc |
Phục vụ | Lục quân Đế quốc Mãn Châu (1944–1945) Lục quân Đại Hàn Dân Quốc (1945–1963) |
Năm tại ngũ | 1944–1963 |
Cấp bậc | Đại tướng |
Tham chiến | Chiến tranh Trung-Nhật Chiến tranh thế giới thứ hai Chiến tranh Triều Tiên |
Tên tiếng Triều Tiên | |
Hangul | |
Hanja | |
Romaja quốc ngữ | Bak Jeonghui |
McCune–Reischauer | Pak Chŏnghŭi |
Bút danh | |
Hangul | |
Hanja | |
Romaja quốc ngữ | Jungsu |
McCune–Reischauer | Chungsu |
Park Chung-hee được xem là một trong những nhà lãnh đạo, nhà cải cách táo bạo hàng đầu trong lịch sử Hàn Quốc cũng như thế giới.[4] Cụ thể, ông là người trực tiếp khởi xướng và dẫn dắt đất nước tạo ra Kỳ tích sông Hán — một thời đại chứng kiến sự phát triển thần tốc kéo dài cho tới đầu thế kỷ XXI, biến đất nước Hàn Quốc từ một đống tro tàn, đổ nát thời kỳ hậu chiến tranh Triều Tiên trở thành một trong những nền kinh tế hàng đầu của châu Á cũng như thế giới.
Trong một cuộc khảo sát của Gallup được thực hiện vào năm 2015 tại Hàn Quốc với 99% số người tham gia khảo sát, Park Chung-hee được tôn vinh là "Tổng thống vĩ đại nhất" trong lịch sử nước này với tỷ lệ bình chọn là 44%.[5]