Thierry Henry
cựu cầu thủ bóng đá người Pháp / From Wikipedia, the free encyclopedia
Thierry Daniel Henry (phát âm tiếng Pháp: [tjɛʁi ɑ̃ʁi]; sinh ngày 17 tháng 8 năm 1977) là một huấn luyện viên và cựu cầu thủ bóng đá người Pháp hiện đang dẫn dắt trong màu áo U-21 Pháp. Anh được coi là một trong những tiền đạo vĩ đại nhất mọi thời đại và là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất lịch sử Premier League.[4] Trong năm 2003 và 2004, Henry là Á quân Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA và Quả bóng vàng châu Âu. Anh được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất năm của PFA hai lần, Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FWA ba lần và sáu lần liên tiếp có tên trong Đội hình tiêu biểu của PFA. Anh cũng được xếp vào FIFA FIFPro World XI một lần và Đội hình của năm UEFA năm lần. Anh là một trong những cầu thủ bóng đá được tiếp thị nhiều nhất thập niên 2000. Henry là một trong hai cầu thủ đầu tiên được giới thiệu vào Đại sảnh Danh vọng Premier League năm 2021.[5]
Henry năm 2021 | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Thông tin cá nhân | ||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Thierry Daniel Henry[1] | |||||||||||||||||||||||||||||||
Ngày sinh | 17 tháng 8, 1977 (46 tuổi)[2] | |||||||||||||||||||||||||||||||
Nơi sinh | Les Ulis, Pháp | |||||||||||||||||||||||||||||||
Chiều cao | 1,88 m (6 ft 2 in)[3] | |||||||||||||||||||||||||||||||
Vị trí | Tiền đạo | |||||||||||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | |||||||||||||||||||||||||||||||
1983–1989 | CO Les Ulis | |||||||||||||||||||||||||||||||
1989–1990 | US Palaiseau | |||||||||||||||||||||||||||||||
1990–1992 | Viry-Châtillon | |||||||||||||||||||||||||||||||
1992 | Clairefontaine | |||||||||||||||||||||||||||||||
1992–1994 | Monaco | |||||||||||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | |||||||||||||||||||||||||||||
1994–1995 | Monaco B | 19 | (6) | |||||||||||||||||||||||||||||
1994–1999 | Monaco | 105 | (20) | |||||||||||||||||||||||||||||
1999 | Juventus | 16 | (3) | |||||||||||||||||||||||||||||
1999–2007 | Arsenal | 254 | (174) | |||||||||||||||||||||||||||||
2007–2010 | Barcelona | 80 | (35) | |||||||||||||||||||||||||||||
2010–2014 | New York Red Bulls | 122 | (51) | |||||||||||||||||||||||||||||
2012 | → Arsenal (mượn) | 4 | (1) | |||||||||||||||||||||||||||||
Tổng cộng | 600 | (290) | ||||||||||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | |||||||||||||||||||||||||||||
1997 | U-20 Pháp | 5 | (3) | |||||||||||||||||||||||||||||
1997–2010 | Pháp | 123 | (51) | |||||||||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp quản lý | ||||||||||||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | |||||||||||||||||||||||||||||||
2016–2018 | Bỉ (trợ lý) | |||||||||||||||||||||||||||||||
2018–2019 | Monaco | |||||||||||||||||||||||||||||||
2019–2021 | Montreal Impact | |||||||||||||||||||||||||||||||
2021–2022 | Bỉ (trợ lý) | |||||||||||||||||||||||||||||||
2023– | U-21 Pháp | |||||||||||||||||||||||||||||||
Thành tích huy chương
| ||||||||||||||||||||||||||||||||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia |
Henry có trận ra mắt với As Monaco vào năm 1994 trước khi ký hợp đồng với nhà đương kim vô địch Serie A Juventus. Tuy nhiên, do không được ra sân nhiều, cộng với những bất đồng với ban lãnh đạo của câu lạc bộ, đã khiến anh ký hợp đồng với câu lạc bộ Arsenal với giá 11 triệu bảng vào năm 1999. Dưới sự chỉ đạo của huấn luyện viên Arsène Wenger, Henry đã trở thành chân sút ghi nhiều bàn thắng nhất mọi thời đại của Arsenal với 228 bàn thắng trên mọi đấu trường. Anh giành kỷ lục Chiếc giày vàng Premier League bốn lần, giành hai FA Cup và Premier League cùng câu lạc bộ, trong đó có một danh hiệu trong mùa giải bất bại được mệnh danh là The Invincibles. Anh tiếp tục trải qua hai mùa giải cuối cùng của mình cho Arsenal với tư cách là đội trưởng câu lạc bộ, dẫn dắt họ đến trận chung kết UEFA Champions League năm 2006. Vào tháng 6 năm 2007, anh chuyển đến Barcelona. Trong mùa giải 2008–09, Henry là một phần quan trọng trong đội hình giành cú ăn ba lịch sử của câu lạc bộ khi họ vô địch La Liga, Copa del Rey và UEFA Champions League. Sau đó anh cùng đội bóng giành thêm Supercopa de España, UEFA Super Cup và FIFA Club World Cup, giúp Barça trở thành câu lạc bộ đầu tiên giành 6 danh hiệu trong một năm dương lịch. Năm 2010, anh gia nhập New York Red Bulls của Major League Soccer, nhưng trở lại Arsenal dưới dạng cho mượn trong hai tháng vào năm 2012, trước khi giải nghệ vào năm 2014.
Henry có được nhiều thành công cùng đội tuyển Pháp, giành chức vô địch FIFA World Cup 1998, UEFA Euro 2000 và FIFA Confederations Cup 2003. Anh được vinh danh là Cầu thủ Pháp xuất sắc nhất năm với kỷ lục 5 lần. Anh cũng có tên trong Đội hình xuất sắc của UEFA Euro 2000, là chủ nhân cả Quả bóng vàng và Chiếc giày vàng FIFA Confederations Cup 2003, được xếp vào Đội hình tiêu biểu của FIFA World Cup 2006. Vào tháng 10 năm 2007, anh trở thành tay săn bàn kỷ lục của đất nước mình. Sau 123 lần ra sân và 51 bàn thắng, Henry từ giã sự nghiệp thi đấu quốc tế sau FIFA World Cup 2010.
Sau khi giải nghệ, Henry chuyển sang làm huấn luyện viên. Anh bắt đầu làm huấn luyện viên các đội trẻ của Arsenal vào tháng 2 năm 2015, cùng với công việc của mình với tư cách là một chuyên gia phân tích của Sky Sports. Năm 2016, anh được bổ nhiệm làm trợ lý huấn luyện viên tại đội tuyển Bỉ, trước khi đảm nhận vai trò huấn luyện viên trưởng tại câu lạc bộ cũ Monaco vào năm 2018. Anh thôi nhiệm vụ tại Monaco vào tháng 1 năm 2019 và trở thành huấn luyện viên của Montreal Impact chưa đầy một năm sau đó. Henry đã dẫn dắt Montréal đến vòng loại trực tiếp vào mùa giải 2020 trước khi từ chức để gần gũi hơn với các con của mình ở Anh.