Trương Quốc Vinh
nam ca sĩ và diễn viên người Hồng Kông / From Wikipedia, the free encyclopedia
Trương Phát Tông (tiếng Trung: 張發宗; tiếng Anh: Cheung Fat-chung), thường được biết đến với nghệ danh Trương Quốc Vinh (tiếng Trung: 張國榮, tiếng Anh: Leslie Cheung Kwok-wing, 12 tháng 9 năm 1956 – 1 tháng 4 năm 2003), là một nam ca sĩ kiêm diễn viên người Hồng Kông.[2] Với sự nghiệp trải dài 26 năm, Trương Quốc Vinh đã phát hành khoảng 40 album và tham gia diễn xuất trong khoảng 60 bộ phim.[3][4] Ông là ca sĩ tiên phong và là người định hình bản sắc cho dòng nhạc Cantopop trong suốt thập niên 1980.[5] Bên cạnh sự nghiệp âm nhạc, Trương Quốc Vinh còn là một biểu tượng của nền điện ảnh Hoa ngữ. Nhiều bộ phim mà ông tham gia diễn xuất như Xuân quang xạ tiết (1997), Bá vương biệt Cơ (1993) và A Phi chính truyện (1990) đã trở thành những tác phẩm kinh điển. Ông cũng là một trong số ít ngôi sao châu Á công khai đóng các vai diễn đồng tính nam, tích cực tham gia các hoạt động giành quyền lợi cho cộng đồng LGBT.[6][7]
Trương Quốc Vinh | |||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Trương Quốc Vinh vào năm 1998 | |||||||||||
Sinh | Trương Phát Tông[1] (1956-09-12)12 tháng 9 năm 1956 Cửu Long, Hồng Kông thuộc Anh | ||||||||||
Mất | 1 tháng 4 năm 2003(2003-04-01) (46 tuổi) Mandarin Oriental, Trung Hoàn, Hồng Kông | ||||||||||
Nguyên nhân mất | |||||||||||
Nơi an nghỉ | Đồi Bảo Phúc, Sa Điền, Hồng Kông | ||||||||||
Tư cách công dân | |||||||||||
Trường lớp | Đại học Leeds | ||||||||||
Nghề nghiệp |
| ||||||||||
Năm hoạt động | 1977–2003 | ||||||||||
Cha mẹ |
| ||||||||||
Sự nghiệp âm nhạc | |||||||||||
Tên gọi khác | Ca ca (tiếng Trung: 哥哥; nghĩa đen: "Anh trai") | ||||||||||
Thể loại | |||||||||||
Nhạc cụ | Hát | ||||||||||
Hãng đĩa | |||||||||||
Trương Quốc Vinh | |||||||||||
Phồn thể | 張國榮 | ||||||||||
Giản thể | 张国荣 | ||||||||||
| |||||||||||
Trương Phát Tông | |||||||||||
Phồn thể | 張發宗 | ||||||||||
Giản thể | 张发宗 | ||||||||||
| |||||||||||
Trương Quốc Vinh sinh ra tại Cửu Long, Hồng Kông, sớm sang Anh du học từ năm 12 tuổi. Ông trở về Hồng Kông rồi bước chân vào làng giải trí vào năm 1977, sau khi giành giải nhì một cuộc thi âm nhạc. Sự nghiệp âm nhạc của ông thuở ban đầu không mấy thuận lợi và chỉ bắt đầu khởi sắc khi ông phát hành album Gió tiếp tục thổi vào năm 1982. Năm 1984, ông cho ra mắt ca khúc "Monica", một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất lịch sử âm nhạc đại chúng Hồng Kông. Năm 1987, album Summer Romance của ông trở thành album bán chạy nhất năm ở Hồng Kông với hơn 700 nghìn bản tiêu thụ. Ở lĩnh vực điện ảnh, Trương Quốc Vinh ghi những dấu ấn đầu tiên với các vai diễn trong Liệt hỏa thanh xuân (1982) và Anh hùng bản sắc (1986).
Sau khi tạm ngừng ca hát vào năm 1989, Trương Quốc Vinh tập trung cho sự nghiệp diễn xuất và gặt hái được nhiều thành tích trong những năm 1990. Đặc biệt, vai diễn nghệ sĩ kinh kịch Trình Điệp Y trong Bá vương biệt Cơ (1993) đã đưa tên tuổi của ông đến với khán giả phương Tây, là nét tô điểm đậm nhất cho thành công ở lĩnh vực điện ảnh của ông. Năm 1995, Trương Quốc Vinh trở lại với ngành công nghiệp âm nhạc, một năm sau, phát hành album Hồng nhận được sự tán dương nhiệt liệt. Ông đã nhảy lầu tự sát từ tầng 24 khách sạn Mandarin Oriental, khu Trung Hoàn, Hồng Kông vào ngày 1 tháng 4 năm 2003, sau khi phải chịu ảnh hưởng từ căn bệnh trầm cảm lâu năm của mình.