USS Everett F. Larson (DD-830)
From Wikipedia, the free encyclopedia
USS Everett F. Larson (DD-830/DDR-830) là một tàu khu trục lớp Gearing được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này, nhưng là chiếc duy nhất được đóng, theo tên Binh nhất Thủy quân Lục chiến Everett F. Larson (1920–1942), người đã tử trận trong Chiến dịch Guadalcanal và được truy tặng Huân chương Ngôi sao bạc.[1] Hoàn tất khi chiến tranh đã sắp kết thúc, con tàu tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh và Chiến tranh Việt Nam cho đến năm 1972, khi nó được chuyển cho Hàn Quốc năm 1972 và tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Cộng hòa Hàn Quốc như là chiếc ROKS Jeong Buk (DD-916) cho đến năm 1999. Con tàu hiện đang được bảo tồn như một tàu bảo tàng tại Gangneung.
Tàu khu trục USS Everett F. Larson (DD-830) trên đường đi ngoài khơi bờ biển Oahu, Hawaii, ngày 16 tháng 4 năm 1969 | |
Lịch sử | |
---|---|
Hoa Kỳ | |
Tên gọi | USS Everett F. Larson (DD-830) |
Đặt tên theo | Everett F. Larson |
Xưởng đóng tàu | Bath Iron Works, Bath, Maine |
Đặt lườn | 4 tháng 9 năm 1944 |
Hạ thủy | 28 tháng 1 năm 1945 |
Người đỡ đầu | bà H. Larson |
Nhập biên chế | 6 tháng 4 năm 1945 |
Xuất biên chế | tháng 8 năm 1972 |
Xếp lớp lại |
|
Xóa đăng bạ | 2 tháng 6 năm 1975 |
Số phận | Được chuyển cho Hàn Quốc, 30 tháng 10 năm 1972 |
Hàn Quốc | |
Tên gọi | ROKS Jeong Buk (DD-916) |
Trưng dụng | 30 tháng 10 năm 1972 |
Xuất biên chế | tháng 12 năm 1999 |
Số phận | Bảo tồn như một tàu bảo tàng |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Lớp tàu khu trục Gearing |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài | 390,5 ft (119,0 m) |
Sườn ngang | 40,9 ft (12,5 m) |
Mớn nước | 14,3 ft (4,4 m) |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 36,8 hải lý trên giờ (68,2 km/h; 42,3 mph) |
Tầm xa | 4.500 nmi (8.300 km) ở tốc độ 20 kn (37 km/h) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 350 |
Vũ khí |
|