USS Frank E. Evans (DD-754)
From Wikipedia, the free encyclopedia
USS Frank E. Evans (DD-754) là một tàu khu trục lớp Allen M. Sumner được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ được đặt theo tên Thiếu tướng Thủy quân Lục chiến Frank Evans (1876-1941), chỉ huy Lực lượng Viễn chinh Hoa Kỳ tại Pháp trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất.[1] Nó đã hoạt động cho đến hết Thế Chiến II, và tiếp tục phục vụ sau đó trong Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam trước khi bị cắt làm đôi do va chạm với tàu sân bay Australia Melbourne tại Biển Đông vào ngày 3 tháng 6 năm 1969. Frank E. Evans được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, cùng năm Ngôi sao Chiến trận trong Chiến tranh Triều Tiên, và thêm ít nhất bốn Ngôi sao Chiến trận khác trong Chiến tranh Việt Nam.
Tàu khu trục USS Frank E. Evans (DD-754), năm 1945 | |
Lịch sử | |
---|---|
Hoa Kỳ | |
Tên gọi | USS Frank E. Evans (DD-754) |
Đặt tên theo | Frank Evans |
Xưởng đóng tàu | Bethlehem Mariners Harbor, Staten Island, New York |
Đặt lườn | 21 tháng 4 năm 1944 |
Hạ thủy | 3 tháng 10 năm 1944 |
Người đỡ đầu | bà Frank E. Evans |
Nhập biên chế | 3 tháng 2 năm 1945 |
Tái biên chế | 15 tháng 9 năm 1950 |
Xuất biên chế |
|
Xóa đăng bạ | 1 tháng 7 năm 1969 |
Biệt danh | "Lucky Evans" và "Gray Ghost" |
Danh hiệu và phong tặng | 10 × Ngôi sao Chiến trận |
Số phận | Đắm do va chạm với tàu sân bay Australia Melbourne tại Biển Đông, 3 tháng 6 năm 1969 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Lớp tàu khu trục Allen M. Sumner |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài |
|
Sườn ngang | 40 ft (12 m) |
Mớn nước |
|
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ | 34 kn (39 mph; 63 km/h) |
Tầm xa | 6.000 nmi (11.000 km) ở tốc độ 15 kn (17 mph; 28 km/h) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 336 sĩ quan và thủy thủ |
Vũ khí |
|