Đập Tam Hiệp
đập chặn sông Trường Giang / From Wikipedia, the free encyclopedia
Đập Tam Hiệp (tiếng Trung: 三峡大壩; Hán-Việt: Tam Hiệp đại bá; bính âm: Chángjiāng Sānxiá Dàbà) là đập thủy điện nằm chặn ngang sông Trường Giang (sông dài thứ ba trên thế giới) tại Tam Đẩu Bình, Nghi Xương, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Công trình được khởi công xây dựng vào năm 1994. Đập Tam Hiệp hiện là đập thủy điện lớn nhất thế giới. Hồ chứa nước của nó đã bắt đầu chứa nước vào ngày 1 tháng 6 năm 2003, chiếm toàn bộ khu vực Tam Hiệp, vị trí đập nằm giữa thành phố Nghi Xương (tỉnh Hồ Bắc) và Phù Lăng (thành phố Trùng Khánh).
Đập Tam Hiệp 三峡大坝 | |
---|---|
Đập năm 2009 | |
Vị trí ở Hồ Bắc | |
Quốc gia | Trung Quốc |
Vị trí | Tỷ Quy, Nghi Xương, Hồ Bắc |
Tọa độ | 30°49′22″B 111°00′13″Đ |
Mục đích | Điện năng, kiểm soát lũ |
Tình trạng | Vận hành |
Khởi công | 14 tháng 12 năm 1994 |
Khánh thành | 2003[1] |
Chi phí xây dựng | 203 tỉ NDT (31,765 tỉ USD)[2] |
Chủ sở hữu | Điện lực Trường Giang Trung Quốc |
Đập và đập tràn | |
Loại đập | Đập trọng lực |
Ngăn | Trường Giang |
Chiều cao | 181 m (594 ft) |
Chiều dài | 2.335 m (7.661 ft) |
Chiều rộng (đỉnh) | 40 m (131 ft) |
Chiều rộng (đáy) | 115 m (377 ft) |
Dung tích đập tràn | 116.000 m3/s (4.100.000 cu ft/s) |
Hồ chứa | |
Tạo thành | Hồ chứa nước Tam Hiệp |
Tổng dung tích | 39,3 km3 (31.900.000 acre⋅ft) |
Diện tích lưu vực | 1.000.000 km2 (390.000 dặm vuông Anh) |
Diện tích bề mặt | 1.084 km2 (419 dặm vuông Anh)[3] |
Chiều dài tối đa | 600 km (370 mi)[4] |
Độ cao bình thường | 175 m (574 ft) |
Trạm năng lượng | |
Ngày chạy thử | 2003–2012 |
Loại | Thông thường |
Đầu thủy lực | 80,6 m (264 ft) Tối đa: 113 m (371 ft)[3] |
Tua bin | 32 × 700 MW 2 × 50 MW Tua-bin Francis |
Công suất lắp đặt | 22,500 MW |
Hệ số công suất | 45% |
Phát điện hàng năm | 87 TWh (310 PJ) (2015) |
Trừ âu thuyền, dự án này cơ bản đã hoàn thành và vận hành đầy đủ các chức năng vào ngày 4 tháng 7 năm 2012,[5][6] khi các tuốc-bin chính cuối cùng bắt đầu hoạt động. Mỗi tuốc-bin có công suất 700 MW.[7] Thân đập được hoàn thành năm 2006. Ngoài 32 tua-bin chính còn có 2 máy phát điện nhỏ hơn (mỗi máy 50 MW) phục vụ cho nhà máy, tổng công suất phát điện của đập là 22.500 MW.[8][9]
Giống như nhiều đập nước đang xây dựng khác trên thế giới, dự án này cũng gây ra nhiều ý kiến trái chiều trong và ngoài Trung Quốc.[10] Các đề xuất ủng hộ dựa vào các lợi ích kinh tế từ việc kiểm soát ngập lụt do sông Trường Giang gây ra (vốn đã khiến hàng triệu người thiệt mạng chỉ riêng trong thế kỷ 20) và năng lượng từ thủy điện. Các ý kiến phản đối chủ yếu tập trung vào chi phí cho 1,9 triệu người phải di cư, sự mất đi nhiều địa điểm có giá trị khảo cổ học và văn hóa, cũng như các tác động đến môi trường.