Đế quốc Khmer
đế quốc cổ ở Đông Nam Á. / From Wikipedia, the free encyclopedia
Đế quốc Khmer hay Đế quốc Angkor (Hán-Việt: Cao Miên 高棉)là một cựu đế quốc rộng lớn nhất Đông Nam Á với diện tích lên đến 1 triệu km²,từ năm 802- 1431, đóng trên phần lãnh thổ hiện nay thuộc Campuchia, Miền Nam Việt Nam, Lào và Thái Lan. Đế quốc Khmer, tách ra từ Vương quốc Chân Lạp, đã từng cai trị và có phần đất phiên thuộc mà ngày nay thuộc lãnh thổ của các quốc gia: Lào, Thái Lan và miền nam Việt Nam
Đế quốc Khmer
Kambujadesa Kampuchea |
|||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||
802–1431 | |||||||||
Tổng quan | |||||||||
Vị thế | Đế quốc | ||||||||
Thủ đô | Yasodharapura Hariharalaya Angkor | ||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | Khmer cổ Phạn | ||||||||
Tôn giáo chính | Ấn Độ giáo Phật giáo Đại thừa Phật giáo Tiểu thừa | ||||||||
Chính trị | |||||||||
Chính phủ | Quân chủ | ||||||||
Quốc vương | |||||||||
• 802–850 | Jayavarman II | ||||||||
• 1113–1150 | Suryavarman II | ||||||||
• 1181–1218 | Jayavarman VII | ||||||||
• 1393–1463 | Ponhea Yat | ||||||||
Lịch sử | |||||||||
Thời kỳ | Trung đại | ||||||||
• Kế tục Chenla | 802 | ||||||||
• Bị kế tục bởi Lịch sử Campuchia | 1431 | ||||||||
Địa lý | |||||||||
Diện tích | |||||||||
• | 1.200.000 km2 (463.323 mi2) | ||||||||
Dân số | |||||||||
• 1150 | 4,000,000 | ||||||||
| |||||||||
Hiện nay là một phần của | Myanmar Campuchia Lào Thái Lan Việt Nam |
Lịch sử Campuchia |
---|
Phù Nam (thế kỷ 1- 550) |
Chân Lạp (550-802) |
Đế quốc Khmer (802-1432) |
Thời kỳ hậu Angkor (1432-1863) |
Campuchia thuộc Pháp (1863-1946) |
Campuchia thuộc Nhật (1945) |
Vương quốc Campuchia (1946-1953) |
Vương quốc Campuchia (1953-1970) |
Cộng hòa Khmer (1970-1975) |
Campuchia Dân chủ (1975-1979) |
Cộng hòa Nhân dân Campuchia (1979-1989) |
Liên minh chính phủ Kampuchea Dân chủ (1982-1992) |
Nhà nước Campuchia (1989-1992) |
Cơ quan chuyển tiếp Liên Hợp Quốc tại Campuchia (1992-1993) |
Vương quốc Campuchia (1993-nay) |
sửa |
Trong quá trình tạo lập nên đế chế này, người Khmer đã có các mối quan hệ thương mại với đế quốc Java và sau đó với đế quốc Srivijaya giáp biên giới đế quốc Khmer về phía nam. Di sản lớn nhất của Đế quốc Khmer là Angkor - kinh đô của Đế quốc này vào thời cực thịnh của nó. Angkor là chứng tích của sức mạnh và sự thịnh vượng của Đế quốc Khmer và cũng là hiện thân của nhiều tín ngưỡng mà nó đã mang trong mình. Các tôn giáo chính thức của đế chế này là: Ấn Độ giáo, Phật giáo Đại thừa cho đến khi Phật giáo Nam truyền chiếm ưu thế sau khi được du nhập từ Sri Lanka vào thế kỷ 13.
Sự khởi đầu của Đế quốc Khmer theo truyền thống được xác định là vào năm 802, khi hoàng tử Khmer Jayavarman II tự xưng là chakravartin (nghĩa đen là 'người cai trị toàn cầu', tước hiệu tương đương với 'hoàng đế') ở vùng núi Phnom Kulen. Mặc dù sự kết thúc của Đế chế Khmer theo truyền thống được đánh dấu bằng sự sụp đổ của Angkor vào tay Vương quốc Ayutthaya của Xiêm vào năm 1431, nhưng lý do dẫn đến sự sụp đổ của đế chế này vẫn còn được các học giả tranh luận.[1] Các nhà nghiên cứu đã xác định rằng sau một thời kỳ mưa gió mùa mạnh là hạn hán nghiêm trọng trong khu vực, gây thiệt hại cho cơ sở hạ tầng thủy lực của đế quốc. Sự thay đổi giữa hạn hán và lũ lụt cũng là một vấn đề, có thể khiến cư dân phải di cư về phía nam và rời xa các thành phố lớn của đế quốc.[2]
Lịch sử của Angkor với vai trò là trung tâm của đế quốc Khmer lịch sử cũng là lịch sử Khmer từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 15. Từ đế quốc Khmer và cũng từ khu vực Angkor - không có một ghi chép bằng văn bản nào còn sót lại đến ngày này mà chỉ có những văn bản được khắc chạm trên đá. Do đó những gì còn được biết đến ngày nay về nền văn minh Khmer lịch sử được chủ yếu tham khảo từ các nguồn:
- Khai quật khảo cổ, phục dựng lại và điều tra.
- Các bản chạm khắc trên bia và trên đá ở các đền ghi chép lại những chiến công chính trị và tôn giáo của các triều hoàng đế.
- Các bức phù điều trên các bức tường của các đền đài miêu tả các cuộc hành quân, cuộc sống ở trong cung, các cảnh chợ búa và các cảnh sinh hoạt thường ngày của dân chúng.
- Các ghi chép còn lưu lại được của các sứ thần, nhà buôn và những người lữ hành Trung Hoa xưa.
Sự khởi đầu của kỷ nguyên Vương quốc Khmer Angkor được cho là bắt đầu từ năm 802 sau Công nguyên. Trong năm này, vua Jayavarman II đã tự xưng "Chakravartin" (vua của thiên hạ). Đế quốc đã kết thúc với sự sụp đổ của Angkor vào thế kỷ thứ 15.