Đế quốc Tây Ban Nha
From Wikipedia, the free encyclopedia
Đế quốc Tây Ban Nha (tiếng Tây Ban Nha: Imperio español) là một trong những đế quốc lớn nhất thế giới và là một trong những đế quốc toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Đạt tới thời kỳ cực thịnh về quân sự, quyền lực chính trị và kinh tế dưới vương triều Habsburg Tây Ban Nha, trong thế kỷ 16 và 17, có phạm vi rộng nhất dưới vương triều Borbón là 13,7 triệu km² và tầm ảnh hưởng thực tế lên đến 19,4 triệu km². Khi hợp chung với Đế quốc Bồ Đào Nha trong một hệ thống chung gọi là Liên minh Iberia, từ 1580 đến 1640,Đế quốc Tây Ban Nha trở thành siêu cường và là Đế quốc hạng nhất ở Châu Âu và Thế giới nói chung cho đến cuộc chiến kế vị Tây Ban Nha diễn ra.Trong khoảng thời gian đó Đế quốc Tây Ban Nha được gọi là "đế quốc mặt trời không bao giờ lặn" đầu tiên.
Bài này có thể cần phải được sửa các lỗi ngữ pháp, chính tả, tính mạch lạc, trau chuốt lại lối hành văn sao cho bách khoa. |
Đế quốc Tây Ban Nha
|
|
---|---|
Tên bản ngữ
| |
1492–1976 | |
Lãnh thổ trên toàn thế giới trong đó bao gồm từng là lãnh thổ Đế quốc Tây Ban Nha. | |
Đế quốc Tây Ban Nha ở thời kì đỉnh cao năm 1780 | |
Tổng quan | |
Vị thế | Đế quốc thực dân |
Thủ đô | Madrid (1561–1601, 1606–1976) Valladolid (1601–1606) |
Ngôn ngữ thông dụng | Tiếng Tây Ban Nha (de facto) Tiếng Latinh (chính thức) |
Tôn giáo chính | Giáo hội Công giáo |
Tên dân cư | Người Tây Ban Nha |
Chính trị | |
Chính phủ | Quân chủ tuyệt đối (Habsburg) Quân chủ chuyên chế (Bourbon) |
Hoàng Đế | |
Lịch sử | |
Lịch sử | |
• Chinh phục Quần đảo Canary | 1402–1496 |
• Tây Ban Nha đổ bộ tới châu Mỹ | 1492 |
• Cuộc chinh phạt Navarre | 1512 |
1580–1640 | |
1701-1714 | |
1808-1833 | |
1898 | |
• Rút khỏi Sahara thuộc Tây Ban Nha và Đế quốc Tây Ban Nha giải thể. | 1976 |
Địa lý | |
Diện tích | |
• 1780 | 13.700.000 km2 (5.289.600 mi2) |
• 1900 | 700.000 km2 (270.272 mi2) |
• 1960 | 900.000 km2 (347.492 mi2) |
Dân số | |
• 1600 | 29.000.000 |
• 1700 | 24.530.000 |
• 1780 | 24.610.000 |
• 1900 | 18.594.000 |
• 1960 | 35.529.000 |
Kinh tế | |
Đơn vị tiền tệ | Real Tây Ban Nha Escudo (từ 1537) Peso Tây Ban Nha (từ 1598) Peseta Tây Ban Nha (từ 1869) |
Lãnh thổ cấp độc lập do Phi thực dân hóa châu Phi (1956–1976).
|
Vào thế kỷ thứ 15 và 16 Tây Ban Nha là quốc gia tiên phong cho phong trào thám hiểm thế giới và chủ nghĩa bành trướng thuộc địa của châu Âu cũng như tiên phong trong việc mở các lộ trình giao thương qua đại dương, với việc thông thương phát triển nở rộ qua Đại Tây Dương giữa Tây Ban Nha với Mỹ và qua Thái Bình Dương giữa Châu Á - Thái Bình Dương từ México qua Philippines. Những người Tây Ban Nha đi khai phá thuộc địa đã lật đổ những nền văn minh Aztec, Inca, Maya và tuyên bố chủ quyền với một dải đất bao la ở Châu Mỹ rộng lớn. Trong một khoảng thời gian, Đế quốc Tây Ban Nha thống trị các đại dương nhờ hạm đội tàu giàu kinh nghiệm, một sức mạnh bậc nhất toàn cầu, và họ thống trị những chiến trường ở châu Âu với một lực lượng bộ binh dày dạn và thiện chiến có tên là tercios. Tây Ban Nha trải qua thời kỳ vàng son về văn hóa trong thế kỷ 16 và 17.
Từ giữa thế kỷ 16, vàng và bạc từ các mỏ ở châu Mỹ đã tăng cường tiềm lực quân sự của Habsburg thuộc Tây Ban Nha trong một chuỗi các cuộc chiến tại châu Âu và Bắc Phi. Vào thế kỷ 17 và 18, Đế quốc Tây Ban Nha có được một lãnh thổ rộng lớn nhất trên thế giới, dù nó có trải qua sự biến động và tài sản kinh tế từ thập niên 1640. Phải đương đầu với kinh nghiệm và thử thách mới trong việc xây dựng Đế quốc, các nhà tư tưởng Tây Ban Nha đã công thức ra một vài ý tưởng tân tiến trong các đạo luật thiên nhiên, quyền tối cao độc lập, đạo luật quốc tế, chiến tranh và kinh tế - họ thậm chí đặt dấu hỏi về tính hợp pháp của chủ nghĩa đế quốc - liên quan đến những trường phái ý tưởng về tính tập thể như trường phái Salamanca.
Những bất đồng thường xuyên với các thế lực thù địch đã gây ra các cuộc chiến về lãnh thổ, giao thương và tôn giáo mà đã góp phần không nhỏ vào sự suy tàn dần dần của đế chế Tây Ban Nha từ giữa thế kỷ 17. Trên Địa Trung Hải, Tây Ban Nha thường xuyên giao chiến với Đế quốc Ottoman, trên lục địa châu Âu, Vương quốc Pháp vươn lên với một sức mạnh tương đương. Ở bên ngoài, Tây Ban Nha ban đầu bị cạnh tranh bởi Đế quốc Bồ Đào Nha, rồi sau đó là Liên Hiệp Anh và Đế quốc Hà Lan. Thêm vào đó, các lực lượng phá rối dưới sự đỡ đầu của Anh, Pháp và Hà Lan cùng với việc phạm tội quá mức của chính chủ Tây Ban Nha, sự tham nhũng gia tăng của chính phủ và sự đình trệ về kinh tế gây ra bởi các chi tiêu chí đã phần nào đóng góp cho sự đi xuống của Đế quốc này.
Đế quốc Tây Ban Nha tại châu Âu đã không còn là Đế quốc hạng nhất tại Châu Âu do thất bại trong Chiến tranh kế vị Tây Ban Nha và Hiệp ước Utrecht được kí vào năm 1713, hiệp ước đã cắt bỏ những lãnh thổ còn lại của Tây Ban Nha ở Naples và các quốc gia thuộc vùng đất thấp. Tài sản thuộc địa của Tây Ban Nha tăng lên sau đó, nhưng nó vẫn duy trì là một sức mạnh thứ hai về chính trị tại lục địa châu Âu.
Tuy nhiên, Tây Ban Nha duy trì và mở rộng đế quốc bên ngoài của nó cho đến thế kỷ 19, Napoleon xâm lược Tây Ban Nha vào năm 1808 tạo ra Chiến tranh Bán đảo khiến thủ đô Marrid thất thủ.Dưới sự chiếm đóng của Pháp đã tạo ra thời cơ làn sóng tuyên bố độc lập tại Quito (1809), Colombia (1810), Venezuela và Paraguay (1811) đồng thời các cuộc cách mạng liên tiếp nổ ra đã cướp đi các thuộc địa của đế chế tại Đại Lục Châu Mỹ. Tây Ban Nha cố gắng duy trì những mảnh vụn của đế quốc tại vùng Caribe (Cuba và Puerto Rico); Châu Á (Philippines), và Châu Đại Dương (Guam, Micronesia, Palau, và Quần đảo Bắc Mariana) cho đến tận Chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa Kỳ nổ ra năm 1898. Sự tham gia của Tây Ban Nha trong cuộc tranh chấp châu Phi là rất nhỏ; vùng Maroc (thuộc địa Maroc của Tây Ban Nha) được duy trì cho đến năm 1956, Guinée thuộc Tây Ban Nha và Sahara thuộc Tây Ban Nha được duy trì cho đến năm 1968 và 1975. Quần đảo Canaria, Ceuta, Melilla là những khu vực hành chính hiện vẫn là một phần của Tây Ban Nha trong khi Isla de Alborán, Isla Perejil, Islas Chafarinas, Peñón de Alhucemas, và Peñón de Vélez de la Gomera vẫn là các lãnh thổ thuộc Tây Ban Nha.Năm 1975, Tây Ban Nha rút quân ra khỏi Sahara sau khi Franco mất. Vị vua mới Juan Carlos I đã chuyển đổi sang nền Quân chủ Lập Hiến hiện đại mang tính dân chủ vào năm 1976 các lãnh thổ đi sản thuộc địa còn tàn dư của Đế quốc kết thúc từ đó. Đế quốc Tây Ban Nha kết thúc sau 484 năm tồn tại.