Mũi đất Arabat
From Wikipedia, the free encyclopedia
Mũi đất Arabat (tiếng Ukraina: Арабатська стрілка, Arabatska strilka; tiếng Nga: Арабатская стрелка, Arabatskaya Strelka; tiếng Tatar Krym: Arabat beli), còn gọi là "doi đất Arabat", là một mũi đất (dải đất hẹp) chia tách hệ thống vùng đầm phá cạn ngập mặn Sivash với biển Azov. Mũi đất này nằm giữa thị trấn Henichesk, Ukraina ở phía bắc và bờ biển phía đông bắc của bán đảo Krym ở phía nam. Nó bị chia tách với Henichesk bởi eo biển Henichesk (tiếng Nga: Генический пролив). Tên gọi khác của eo biển này là "eo biển mỏng" (tiếng Nga: Тонкий Пролив), phản ánh tính hẹp của eo biển - eo biển này dài khoảng 4 km nhưng rộng chỉ từ 80–150 m và sâu 4,6 m [1].
Mũi đất Arabat (Arabat beli) | |
Арабатская стрелка | |
Bán đảo | |
Ký hiệu số 5 là mũi đất Arabat | |
Quốc gia | Ukraina |
---|---|
Các vùng | Krym, Kherson Oblast |
Các địa khu | Henichesk, Nyzhnyohirsk, Sovyetsky, Kirovske, Leninske |
Mốc giới | Azov-Syvash (Bảo tồn thiên nhiên) |
Dân số | 3,664 (2001) |
Mũi đất Arabat là mũi đất dài nhất thế giới. Nó có chiều dài 112 km,[2] và rộng từ 270 m đến 8 km;[3][4][5] diện tích bề mặt của nó là 395 km² và do đó chiều rộng trung bình là 3,5 km. Trong khi dải đất phía biển Azov nhỏ và thẳng thì bên Sivash lại bị cong. Mũi đất bao gồm hai khu vực rộng 7–8 km và có những ngọn đồi đất sét nâu; cách eo biển Henichesk 7,5 km và 32 km. Các lớp trên cùng của mũi đất được hình thành bởi cát và dòng chảy của biển Azov. Thảm thực vật tại đây chủ yếu là các loại cỏ bao gồm cỏ đuôi trâu, mận gai, vũ mâu, crambe, salsola, salicornia, Carex colchica, Tamarix, cam thảo, vv [6][7] Ngày nay, vùng đất này là một khu nghỉ mát còn phía bên bờ biển Azov được dùng làm bãi tắm. Nước ở đây nông, chỉ đạt độ sâu khoảng 2 mét khi ra xa bờ tới 100-200 mét.[8], nhiệt độ tại đây là khoảng 0 °C vào mùa đông (gần đóng băng), 10-15 °C vào mùa xuân và mùa thu, và 25-30 °C vào mùa hè.[9] Khoảng một nửa diện tích của dải đất thuộc về tỉnh Kherson, Ukraina và một nửa thuộc Cộng hòa Krym [5].