T-64
Xe tăng chiến đấu chủ lực của Liên Xô / From Wikipedia, the free encyclopedia
T-64 (tên mã dự án là Obyekt 434) là một xe tăng chiến đấu chủ lực của Liên Xô. Nó được phát triển và chế tạo từ đầu thập niên 1960 bởi phòng thiết kế xây dựng cơ khí Kharkiv mang tên A. A. Mozorov. T-64 bắt đầu được sản xuất hàng loạt từ năm 1964 và chính thức phục vụ trong quân đội Liên Xô từ năm 1969. Từ thập niên 1970, Liên Xô bắt đầu trang bị các xe tăng chiến đấu chủ lực T-64 và thế hệ nối tiếp trên cơ sở cải tiến T-64 là T-80 cho các sư đoàn xe tăng, đồng thời phân bổ các xe tăng T-54/55, T-62 sang sử dụng làm phương tiện hỗ trợ cho các sư đoàn bộ binh cơ giới.
Các chú thích trong bài hoặc đoạn này phải hoàn chỉnh hơn để có thể được kiểm chứng. |
T-64 | |
---|---|
Mẫu T-64A được dựng lại | |
Loại | xe tăng chủ lực MBT |
Nơi chế tạo | Liên Xô |
Lược sử hoạt động | |
Phục vụ | 1966–nay |
Sử dụng bởi | Liên Xô Belarus Nga Ukraina Uzbekistan |
Lược sử chế tạo | |
Người thiết kế | Phòng thiết kế Morozov |
Năm thiết kế | 1951–62 |
Nhà sản xuất | Nhà máy Malyshev |
Giai đoạn sản xuất | 1963–87 |
Số lượng chế tạo | gần 13,000 |
Thông số (T-64A[1]) | |
Khối lượng | 38 tấn/42,4 tấn |
Chiều dài | 9,225 m/9,9 mét |
Chiều rộng | 3,415 mét/3,6 mét |
Chiều cao | 2,172 mét/ |
Kíp chiến đấu | 3 người (trưởng xe, lái xe, pháo thủ) |
Phương tiện bọc thép | Giáp composite, cụ thể là gồm 1 lớp chất dẻo được gia cố bằng sợi thủy tinh 20–45 mm kẹp giữa hai lớp thép |
Vũ khí chính | Pháo nòng trơn 125 mm/L53.5 hay D-81T (40 viên đạn sabot) |
Vũ khí phụ | Đại liên đồng trục 7,62 ly PKMT (3000 viên đạn), **Đại liên phòng không 12,7 ly NSVT (500 viên đạn) |
Động cơ | diesel 5 xilanh đa nhiên liệu 5DTF 750 mã lực 700 hp |
Công suất/trọng lượng | 17,85/18,4 mã lực/tấn |
Hệ thống treo | Torsion bar |
Tầm hoạt động | 500 km |
Tốc độ | 60,5/75 km/giờ |
Phiên bản nguyên thủy của T-64 sử dụng pháo nòng trơn 115 mm 2A21 (D-68) và đại liên đồng trục 7,62mm PKT. Nó là loại xe tăng áp dụng hàng loạt công nghệ tiên tiến nhất thế giới khi đó. Nó là xe tăng đầu tiên trên thế giới sử dụng hệ thống nạp đạn tự động[2] thay thế vai trò của người lính nạp đạn, vì vậy tổ lái giảm xuống còn có ba người. Nó cũng là xe tăng đầu tiên sử dụng hệ thống đo khoảng cách bằng laser để tăng độ chính xác khi bắn mục tiêu ở xa[3]. Vỏ giáp của T-64 cũng là loại đầu tiên sử dụng vật liệu tổng hợp thay vì chỉ có thép thông thường[3][4] làm tăng độ bền cho giáp trụ.
Phiên bản cải tiến là T-64A (1968) mang lớp giáp dày hơn và pháo chính với cỡ nòng 125 mm. Thiết kế mới làm xóa nhòa sự phân loại xe tăng hạng trung và hạng nặng vì T-64 lần này mang các thuộc tính của 2 dòng xe tăng đó: nó có vỏ giáp dày tương đương xe tăng hạng nặng và độ cơ động tốt của tăng hạng trung. Nói cách khác, T-64 là xe tăng chiến đấu chủ lực đầu tiên của Liên Xô và cũng là đầu tiên trên thế giới[5]. Phiên bản T-64B (1976) là loại xe tăng đầu tiên có khả năng bắn tên lửa chống tăng có điều khiển qua nòng pháo[6].
Trên cơ sở T-64, Liên Xô sau đó đã phát triển T-72 và T-80 cũng là các xe tăng chiến đấu chủ lực nhưng theo các phương châm khác nhau.