Cộng hòa Nhân dân Ukraina
From Wikipedia, the free encyclopedia
Cộng hòa Nhân dân Ukraina[lower-alpha 4][lower-alpha 5] là một nhà nước tồn tại ngắn ngủi tại Đông Âu. Hội đồng Trung ương Ukraina được bầu ra vào tháng 3 năm 1917 do kết quả từ Cách mạng Tháng Hai, và đến tháng 6 thì họ tuyên bố quyền tự trị của Ukraina bên trong nước Nga. Quyền tự trị này sau đó được Chính phủ Lâm thời Nga công nhận. Sau Cách mạng Tháng Mười, Hội đồng Trung ương Ukraina lên án Bolshevik cướp chính quyền và tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Ukraina cùng lãnh thổ bao gồm khu vực gần tương ứng với tám tỉnh của Đế quốc Nga (Kyiv, Volyn, Kharkiv, Kherson, Yekaterinoslav, Poltava, Chernihiv và Podolia). Họ chính thức tuyên bố độc lập từ Nga vào ngày 22 tháng 1 năm 1918.
Cộng hòa Nhân dân Ukraina
|
|
---|---|
Tên bản ngữ
| |
1917–1918; 1918–1921[lower-alpha 1] | |
Con dấu nhà nước: | |
Cộng hòa Nhân dân Ukraina (xanh) năm 1918 chồng lên biên giới hiện đại | |
Tổng quan | |
Vị thế | Tự trị trong Cộng hòa Nga (1917–1917/1918) Nhà nước được công nhận một phần (1917/1918–1921) Chính phủ lưu vong (1921–1992) |
Thủ đô | Kiev Các thủ đô thực tế lâm thời: |
Ngôn ngữ thông dụng | Chính thức: Ukraina Thiểu số: Nga, Yid, Ba Lan, Đức, Belarus, Romania, Bulgaria, Hy Lạp, Urum, khác. |
Tôn giáo chính |
|
Tên dân cư | Người Ukraina |
Chính trị | |
Chính phủ | Cộng hòa Nhân dân |
Tổng thống (Hội đồng Trung ương) | |
• 1917–1918 | Mykhailo Hrushevskyi |
Tổng thống (Đốc chính) | |
• 1918–1919 | Volodymyr Vynnychenko |
• 1919–1920[lower-alpha 2] | Symon Petliura |
Thủ tướng | |
• 1917–1918 | Volodymyr Vynnychenko |
• 1918–1919 | Volodymyr Chekhivsky |
• 1919 | Borys Martos |
• 1919–1920 | Isaak Mazepa |
• 1920–1921 | Vyacheslav Prokopovych |
Lập pháp | Hội đồng Trung ương[lower-alpha 3] Đại hội Lao động |
Lịch sử | |
Thời kỳ | Thế chiến I • Nội chiến Nga |
• Tuyên bố tự trị | 23 tháng 6 năm 1917 |
• Độc lập thực tế | 20 tháng 11 1917 |
• Độc lập pháp lý | 22 tháng 1 năm 1918 |
• Đốc chính hình thành | 13 tháng 11 năm 1918 |
• Khôi phục cộng hòa | 14 tháng 12 năm 1918 |
• Đạo luật Thống nhất được ký kết | 22 tháng 1 năm 1919 |
• Hòa ước Riga | 18 tháng 3 1921 |
Địa lý | |
Diện tích | |
• Tổng cộng | 860,000 km2 332 mi2 |
Kinh tế | |
Đơn vị tiền tệ | Karbovanets Hryvnia |
Trong thời gian tồn tại ngắn ngủi, nước cộng hòa trải qua một số biến đổi chính trị - từ nước cộng hòa thiên về xã hội chủ nghĩa do Hội đồng Trung ương Ukraina đứng đầu với Tổng Ban bí thư, đến nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa do đốc chính và Symon Petliura lãnh đạo. Từ tháng 4 đến tháng 12 năm 1918, chính quyền Xã hội chủ nghĩa của Cộng hòa Nhân dân Ukraina bị đình chỉ, sau khi bị Quốc gia Ukraina thân Đức của Pavlo Skoropadskyi lật đổ, người này được đại hội nông dân bầu làm Hetman của Ukraina.[1][2][cần câu trích dẫn để xác minh] Sau khi Quốc gia Ukraina sụp đổ, Cộng hòa Nhân dân Ukraina tuyên bố thống nhất với Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraina vào tháng 1 năm 1919. Sau Chiến tranh Ba Lan–Ukraina, nước này đã ký kết một liên minh với Cộng hòa Ba Lan thứ hai. Vào ngày 10 tháng 11 năm 1920, nhà nước này mất phần lãnh thổ còn lại vào tay những người Bolshevik. Hòa ước Riga vào ngày 18 tháng 3 năm 1921 giữa Ba Lan, Nga Xô viết (cũng thay mặt cho Belarus Xô viết), và Ukraina Xô viết đã định đoạt số phận của Cộng hòa Nhân dân Ukraina.